Bản án 30/2021/HSST ngày 15/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 30/2021/HSST NGÀY 15/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:23/2021/TLST-HS ngày 23/02/2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số:51/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Ngọc T, sinh năm 1975 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không có; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Quý T; con bà: Nguyễn Thị N; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 12/02/1998 bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản của công dân”; Ngày 16/7/2004 bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; Ngày 30/3/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2020 (có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 16 tháng 9 năm 2020, Tổ Công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 đi tuần tra phát hiện Trần Ngọc T ngồi tại trước nhà số 1015 Trần Hưng Đạo, Phường 5, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của Trần Ngọc T có hai gói nylon chứa tinh thể không màu, T khai là ma túy nên Tổ Công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 đưa T cùng vật chứng về Công an Phường 5, Quận 5 lập biên bản phạm tội quả tang.

Trần Ngọc T khai nhận: T nghiện ma túy và sống lang thang tại khu vực đường Trần Hưng Đạo, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Tối ngày 16 tháng 9 năm 2020, T đang ngồi tại trước nhà số 1015 Trần Hưng Đạo, Phường 5, Quận 5 thì có một người phụ nữ (không rõ lai lịch) cũng sống lang thang giống như T, người phụ nữ này đưa cho T hai gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy và nhờ T cất giữ giúp, T đồng ý và cất hai gói nylon vào túi quần phía trước bên trái đang mặc. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang ngồi tại trước nhà số 1015 Trần Hưng Đạo, Phường 5, Quận 5 thì bị Tổ Công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 5 kiểm tra phát hiện T có cất giấu ma túy trong người. Trần Ngọc T khai mục đích cất ma túy trong người là đợi người phụ nữ đến lấy lại chứ không nhằm mục đích gì khác. Qua kiểm tra, Trần Ngọc T dương tính với ma túy.

Vật chứng thu giữ: 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trần Ngọc T và hình dấu Công an Phường 5, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,2552g (không phẩy hai năm năm hai gam), loại Methamphetamine (Số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1618/2020, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Nguyễn Thành Tấn); 01 (một) điện thoại di động ASUS.

Tại Bản kết luận giám định số 1618/KLGĐ-H ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trần Ngọc T và hình dấu Công an Phường 5, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,2552g (không phẩy hai năm năm hai gam), loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số: 29/CTr-VKS ngày 23/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Ngọc T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Ngọc T với mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Trần Ngọc T không có ý kiến bào chữa, tranh luận và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 5, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa công khai, bị cáo Trần Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, bị cáo Trần Ngọc T đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,2552g (không phẩy hai năm năm hai gam), loại Methamphetamine là đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, biết việc tàng trữ trái phép các chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý cất giữ chất ma túy giúp cho một người phụ nữ không rõ lai lịch.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây nghiện và độc hại; gây mất trật tự xã hội ở địa phương, còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; nhằm mục đích giáo dục bị cáo, bên cạnh đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định, để bị cáo có thể cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[8] Đối với người phụ nữ không rõ lai lịch đã đưa ma túy cho bị cáo T giữ giúp, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

[9] Về vật chứng:

02 (hai) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trần Ngọc T và hình dấu Công an Phường 5, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,2552g (không phẩy hai năm năm hai gam), loại Methamphetamine (Số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1618/2020, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Nguyễn Thành Tấn). Xét đây là vật phạm pháp, nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

01 (một) điện thoại di động ASUS. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo T.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 9 năm 2020.

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a Khoản 2, điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trần Ngọc T và hình dấu Công an Phường 5, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,2552g (không phẩy hai năm năm hai gam), loại Methamphetamine (Số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số vụ 1618/2020, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Nguyễn Thành Tấn).

Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc T: 01 (một) điện thoại di động ASUS.

(Hiện vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/2/2021).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 30/2021/HSST ngày 15/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về