Bản án 59/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 59/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:72/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

- Lê Thế V, sinh năm: 1982, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường L, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu N và bà Phạm Thị L; Chưa có vợ; tiền án: Ngày 19/01/2004 TAND Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (bản án số 409/HSST/2004); tiền sự: không; Nhân thân: - Năm 2013 Ủy ban nhân dân Quận 12 đưa vào cơ sở cai nghiện 24 tháng. Năm 2016 TAND Quận 12 đưa vào cai nghiện 24 tháng; bị bắt tam giam ngày: 21/12/2019; (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lê Hữu D, sinh năm 1976; Hộ khẩu thường trú: đường Lê, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 08 giờ ngày 21/12/2019, tại trước nhà số: 784 Thống Nhất, Phường 15, quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh, Công an phường 15, quận Gò Vấp kiểm tra phát hiện Lê Thế V đang cất giấu trong người 01 gói giấy bên trong có chứa tinh thể màu trắng (V khai là Heroin) nên đưa V về Công an phường lập biên bản.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Thế V khai nhận: Bản thân V sử dụng heroin được khoảng hai tháng. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 21/12/2019, V một mình đi xe máy từ nhà đến khu vực hẻm bên cạnh nhà thờ Tử Đình, đường Thống Nhất, phường 15, quận Gò Vấp để tìm mua heroin về sử dụng. Đến nơi, V đi vào trong hẻm gặp một người phụ nữ (không rõ họ tên, lai lịch) và hỏi mua heroin với giá tiền là 200.000 đồng. Người phụ nữ này đồng ý bán và nhận số tiền 200.000 đồng của V rồi đưa cho V một gói giấy được cột dây thun bên ngoài, bên trong có một gói nylon đựng một gói nylon chứa heroin. Sau khi mua heroin xong, V cất giấu vào túi quần trước bên phải đang mặc rồi chạy xe về nhà. Khi V vừa chạy xe máy đến trước nhà số 784 đường Thống Nhất, Phường 15, quận Gò Vấp thì bị Công an Phường 15, quận Gò Vấp kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho V không rõ tên, lai lịch và nhận dạng hình dáng nên không có cơ sở xác định nhân thân lai lịch đối tượng.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói giấy báo được cột dây thun bên ngoài, bên trong có một gói nylon đựng một gói nylon chứa chất bột màu trắng được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Thế V và hình dấu Công an Phường 15, quận Gò Vấp.

Tại bản Kết quả giám định giám định số 58/KLGĐ-H ngày 30/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định bột màu trắng trong 01 gói nylon (để trong gói giấy báo được cột dây thun màu vàng) được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Thế V và hình dấu Công an Phường 15, quận Gò Vấp là mua túy ở thể rắn có khối lượng: 0,1326 (không phẩy một ba hai sáu) gam loại Heroin.

- chiếc xe biển số 59GA -023.50, số khung: RL9SCBAUMHAV01783; số máy: VZS139FMB 18001783. Kết quả xác minh tại Đội Cảnh sát Giao thông Công an quận Gò Vấp chủ sở hữu xe là anh Lê Hữu D (anh ruột của V), V khai mượn chiếc xe trên của anh D đi công việc, sau đó đi mua ma túy và bị tạm giữ V không nói cho anh D biết. Anh D khai nhận chiếc xe máy biển số 59GA -023.50 là của anh mua đăng ký đứng tên chủ sở hữu vào năm 2017; khoảng 7 giờ ngày 21/12/2019, V hỏi mượn xe của anh D đi công chuyện nhưng không thấy V mang xe về trả . Sau đó anh D biết V bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và tạm giữ luôn xe, anh không biết việc V mượn xe để đi mua ma túy, cũng không liên quan đến việc tàng trữ ma túy của V.

Tại bản cáo trạng số 69/CTr-VKS, ngày 13/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Lê Thế V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Lê Thế V 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ.

- Trả lại cho ông Lê Hữu D chiếc xe gắn máy biển số 59GA – 023.50.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Lê Thế V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.

Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng, mua bán ...... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo đã 01 lần bị xử lý về hành vi “cướp giật tài sản” với mức án 03 năm tù chưa được xóa án, do đó lần phạm tội này là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và 02 lần bị đưa đi cai nghiện bắt buộc, do đó cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 Hội đồng xét tính chất vụ án và bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) gói giấy báo được cột dây thun bên ngoài, bên trong có một gói nylon đựng một gói nylon chứa chất bột màu trắng được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Thế V và hình dấu Công an Phường 15, quận Gò Vấp là mua túy ở thể rắn có khối lượng: 0,1326 (không phẩy một ba hai sáu) gam loại Heroin là chất nhà nước cấm lưu hành và sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe gắn máy có mang biển số xe là 59GA -023.50, số khung: RL9SCBAUMHAV01783; số máy: VZS139FMB 18001783. Qua xác minh chủ sở hữu là ông Lê Hữu D (anh ruột của V), ngày 21/12/2019, V hỏi mượn xe của ông D đi công chuyện. Sau đó ông D biết V bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và tạm giữ luôn xe biển số 59GA -023.50, ông D đã có đơn xin lại xe Hội đồng xét xử xét thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và không liên quan đến vụ án nên quyết định trả lại cho ông Lê Hữu D.

[5] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho V không rõ họ tên và lai lịch nên không có cơ sở xác định nhân thân của đối tượng khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thế V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Thế V 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 21/12/2019.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy 01 (môt) gói giấy báo được cột dây thun bên ngoài, bên trong có 01 (một) gói nylon đựng 01 (một) gói nylon chưa chất bột màu trắng, đa đươc niêm phong , bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Thế V và hình dấu Công an phường 15, quận Gò Vấp.

- Trả lại cho ông Lê Hữu D chiếc xe gắn máy biển số 59GA – 023.50, số khung RL9SCBAUMHAV01783, số máy VZS139FMB - 18001783.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 71/PNK, ngày 19/3/2020 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về