Bản án 186/2018/HSST ngày 31/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 186/2018/HSST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 191/2018/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Cà Văn D; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1989; tại huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Cà Văn Y, sinh năm: 1958 và bà Lò Thị T, sinh năm: 1960; bị cáo có vợ là: Lường Quỳnh N, sinh năm 1990 (đã ly hôn) và 01 con 07 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 28-6-2018, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 10 phút, ngày 28-6-2018, Tổ công tác Đội hình sự Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Cà Văn D, nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 02 (Hai) gói nilon màu Trắng, bên trong có chứa ít bột màu trắng nghi là ma túy Heroine ( D khai là Heroine). Cân tịnh gói nilon màu trắng thứ nhất có khối lượng 0,09 gam, ký hiệu D1; cân tịnh gói nilon màu trắng thứ hai có khối lượng 0,15 gam, ký hiệu D2. Rút toàn bộ mẫu vật ký hiệu D1, D2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

- 01 chiếc xe mô tô BKS: 26 B1 – 703.35, số khung: 277128, số máy: 4413659, màu đỏ đen, loại xe Wave, nhãn hiệu HONDA, xe đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số: 834/KLGĐ, ngày 04-7-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng mẫu gửi giám định D1= 0,09 gam; D2 = 0,15gam. Khối lượng chất Heroine tạm giữ của Cà Văn D là 0,24 gam.”. Mẫu giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Cà Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Ngày 27-6-2018, Cà Văn D bắt xe khách đi từ Hà Nội lên huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm người đi làm thuê cùng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi xe khách đi đến khu vực xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, D xuống xe và đi bộ vào nhà DU ở bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để chơi và ngủ nhờ ( DU là bạn của D). Đến khoảng 9 giờ 30 phút ngày 28-6-2018, khi D đang chơi ở nhà DU thì có L; trú tại bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La điều khiển xe máy đến nhà DU chơi, D mượn xe máy của L nói đi có việc, rồi D điều khiển xe sang bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La D gặp và nhờ một người phụ nữ dân tộc Thái ( D không biết tên và địa chỉ cư trú) mua hộ 02 ( hai) gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với số tiền là 80.000đ.

Sau khi mua được Heroine D cầm 02 gói Heroine bên tay trái rồi điều khiển xe máy đi về nhà DU. Khi D đi đến khu vực bản P, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu bắt quả tang về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ cùng vật chứng như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số: 159/CT-VKS, ngày 03-10-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Cà Văn D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Cà Văn D về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cà Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28-6-2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Cà Văn D.

Chấp nhận việc cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe mô tô BKS: 26 B1 – 703.35, số khung: 277128, số máy: 4413659, màu đỏ đen, loại xe Wave, nhãn hiệu HONDA, xe đã qua sử dụng cho anh Lường Văn L.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy 02 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong phong bì có viền xanh đỏ.Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn D.

Ý kiến của bị cáo Cà Văn D: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo sớm được trở lại với gia đình và cộng đồng xã hội. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Ngày 28-6-2018, Cà Văn D; nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 (hai) gói ma túy có tổng khối lượng 0,24 gam, qua giám định là Heroine. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Cà Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôine, côcaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Cà Văn D, tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Cà Văn D.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Cà Văn D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bác ruột là ông Cà Văn L là liệt sỹ. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Song nhân thân bị cáo đã có một tiền án tuy đã được đương nhiên xóa án tích nhưng là nhân thân xấu; bị cáo là người nghiện ma túy, biết rõ tác hại của ma tuý là Nhà nước cấm nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Cà Văn D đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Cà Văn D còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người phụ nữ dân tộc Thái, D gặp ở bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, D khai là người đã bán ma túy cho D vào ngày 28-6-2018 do D không biết tên, tuổi và địa chỉ cụ thể ở đâu. Do vậy cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với chiếc xe máy BKS: 26 B1 – 703.35, số khung: 277128, số máy: 4413659, màu đỏ đen, loại xe Wave, nhãn hiệu HONDA, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe trên là của anh Lường Văn L; trú tại: Bản N, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, việc bị cáo Cà Văn D mượn và sử dụng chiếc xe đi mua ma túy anh L không biết. Anh L có đơn xin lại xe. Do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã trao trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 02 ( hai) mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ xét không cón giá trị sử dụng cần tuyên tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

 [4]. Về án phí: Gia đình bị cáo Cà Văn D có giấy chứng nhận hộ nghèo năm2018. Do vậy Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn Dung. Vận dụng khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cà Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Cà Văn D 18 ( mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28-6-2018 ( là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng: Tiêu hủy 02 ( hai) mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong phong bì có viền xanh đỏ.

4. Về Án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn D.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Cà Văn D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 186/2018/HSST ngày 31/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:186/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về