Bản án 59/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 59/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2019/TLST-HS ngày 29/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2019/QĐXXST-HS ngày 14/6/2019 đối với bị cáo:

Hà Văn Đ, sinh ngày 02 tháng 9 năm 1971 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản I, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn S và bà Cà Thị L; bị cáo có vợ là Cà Thị G và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 10 phút ngày 11/01/2019, tổ công tác Công an phường Q1 phối hợp với Công an phường Q2 làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 3, phường Q2, thành phố S, tỉnh Sơn La phát hiện, bắt quả tang Hà Văn Đ đang cất giữ trái phép chất ma túy (mang theo người). Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa 198 viên nén màu hồng, hình tròn đồng dạng do Đ tự giác lấy từ túi áo khoác phía trong bên trái đang mặc ra giao nộp và khai nhận là hồng phiến cất giữ để sử dụng.

Ngày 11/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng. Kết quả cân tịnh: 198 viên nén màu hồng, hình tròn đồng dạng có tổng khối lượng 19,86 gam. Lấy 10 viên có khối lượng 0,93 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu Đ1; còn lại 18,93 gam lưu kho vật chứng, ký hiệu Đ3.

Kết luận giám định số 234 ngày 14/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: Mẫu giám định ký hiệu Đ1 là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,93 gam. Tồng khối lượng ma túy thu giữ được là 19,86 gam; loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Hà Văn Đ khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 07 giờ ngày 11/01/2019, Hà Văn Đ đi xe buýt từ nhà ở bản I, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La đến khu vực huyện T, tỉnh Sơn La mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực xã T, huyện T, tỉnh Sơn La, Đ xuống xe đi bộ, gặp và mua được của người đàn ông đứng bên lề đường 198 viên Hồng phiến trong 01 túi nilon màu xanh với số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Đ cất số ma túy vừa mua vào túi áo khoác phía trong bên trái đang mặc rồi đi xe buýt về. Khi đi đến khu vực tổ 03, phường Q2, thành phố Sơn La, Đ xuống xe đi bộ tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Đối với người bán ma túy cho Hà Văn Đ: Do Đ không biết họ tên, địa chỉ, ngoài lời khai của Đ không có tài liệu, chứng cứ nào khác để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số 38/CT-VKSTP ngày 28/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Hà Văn Đ về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Hà Văn Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Hà Văn Đ từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Hà Văn Đ. SN: 1973. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 11/01/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 vỏ túi nilon màu xanh; Mẫu lưu kho có khối lượng 18,93 gam, ký hiệu Đ3”.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến. Có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 11/01/2019, Hà Văn Đ đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 19,86 gam Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với số lượng ma túy là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo có tài sản chung với gia đình là một nhà gỗ ba gian diện tích 30m2 trên diện tích đất 100m2 tại bản I, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; bị cáo không có tài sản riêng, thu nhập lao động trồng trọt không ổn định, xét không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 vỏ túi nilon màu xanh; mẫu lưu kho có khối lượng 18,93 gam; xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt Hà Văn Đ 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 11/01/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Hà Văn Đ.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Hà Văn Đ. SN: 1973. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 11/01/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 vỏ túi nilon màu xanh; Mẫu lưu kho có khối lượng 18,93 gam. Ký hiệu Đ3”. Mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và 05 chữ ký, 05 dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong, điểm chỉ ngón trỏ tay phải của đối tượng Hà Văn Đ, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/6/2019 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Hà Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về