Bản án 59/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 59/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 73/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Mạnh D, sinh năm 1977, tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn P, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Mạnh L và con bà Trần Thị H; chưa có vợ, con; nhân thân: Ngày 20/02/1998 Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 04/3/2003 Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Ngày 20/9/2007 Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong hình phạt, đã được xóa án tích); bị bắt tạm giữ từ ngày 01/8/2019, đến ngày 10/8/2019 chuyển tạm giam, đang tạm giam. Có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1983; địa chỉ: Tổ dân phố 4, phường Nghĩa P, thị xã G, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Ngưi làm chứng: Cháu Phan Thị Ng, người đại diện hợp pháp của cháu Phan Thị Ng: Chị Hồ Thị Bạch Tr; chị Nguyễn Thị Bích L. Đều vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 30 phút ngày 31/7/2019, sau khi uống xong thuốc Methadone (thuốc điều trị nghiện ma túy) tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Đắk Nông ở tổ dân phố 4, phường Nghĩa Tr, thị xã G thì Hoàng Mạnh D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Dream, màu tím, BKS 59K1-189.57 đi về nhà mình ở thôn 7, xã Trường X, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông.

Khi đi qua nhà chị Nguyễn Thị Th ở tổ dân phố 4, phường Nghĩa P, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, quan sát thấy nhà khóa cửa ngoài, không có người trông coi nên D nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Sau đó, D đi vào và dựng xe trước sân nhà chị Th. Nhìn thấy có 02 cửa gỗ bên phải nhà nên D đi đến cửa gỗ thứ nhất, dùng hai tay cầm ổ khóa giật mạnh làm bung khóa cửa rồi đi vào trong nhà trộm cắp khoảng 10 chiếc vỏ điện thoại và 01 cưa xăng màu vàng (đều không rõ nhãn hiệu). Tiếp theo, D dùng con dao (dạng dao phát) lấy trên tủ gần cửa gỗ thứ nhất đi đến cửa gỗ thứ hai, cậy mạnh làm bung tấm ván, luồn tay vào bên trong mở khóa rồi đi vào nhà trộm cắp 800.000 đồng tiền mặt cùng 02 nhẫn vàng, 01 đôi bông tai. Sau đó, D cho tất cả tài sản trộm cắp được vào túi nilon màu xanh rồi điều khiển xe về hướng xã Trường X, huyện Đắk S.

Tn đường về, D gặp một người đàn ông thu mua phế liệu (không rõ nhân thân) rồi bán chiếc cưa xăng cho người đàn ông này được số tiền 80.000 đồng. Tiếp đó, D đi vào một bãi đất trống thuộc tổ dân phố 2, phường Nghĩa P, thị xã G kiểm tra số vỏ điện thoại vừa trộm cắp được thì thấy tất cả đều đã hư hỏng, không sử dụng được nên đã bỏ lại số vỏ điện thoại trên ở bãi đất trống rồi đi đến tiệm vàng Kim H ở tổ dân phố 2, phường Nghĩa Th, thị xã G, bán đôi bông tai và 02 nhẫn vàng cho chị Nguyễn Thị Bích L được số tiền 5.535.000 đồng. Số tiền có được D đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 01/8/2019, D đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa đầu thú.

Ti kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐG ngày 09/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự thị xã G kết luận: Đôi bông tai bằng vàng 24K, có đính đá màu trắng trọng lượng 01 chỉ trị giá 3.750.000 đồng; 02 chiếc nhẫn bằng vàng 18K, có đính đá màu trắng, trọng lượng 01 chỉ trị giá 1.700.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 5.450.000 đồng.

Đi với chiếc máy cưa xăng cầm tay màu vàng, không rõ nhãn hiệu, tại Kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐG ngày 09/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự thị xã G kết luận: Không đủ căn cứ để định giá.

Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp được là 6.250.000 đồng (gồm 800.000 đồng tiền mặt + 5.450.000 đồng).

Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu:

- Vật chứng thu giữ được:

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Dream, màu tím, BKS 59K1- 189.57, số khung: 91159, số máy: C100ME-8179791, đã qua sử dụng (thu của Hoàng Mạnh D).

+ 01 USB màu đen chứa file Video mag tên nội bộ-01- 20190807120049179.mp4, được sao lưu từ đầu thu nhãn hiệu PARAGON, lắp đặt tại tiệm vàng Kim H (thu của chị Nguyễn Thị Thanh T- được niêm phong trong bì thư đi kèm hồ sơ vụ án).

- Vật chứng không thu giữ được: 10 chiếc vỏ điện thoại; 01 cưa xăng màu vàng (đều không rõ nhãn hiệu).

Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 28/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Hoàng Mạnh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi của mình như nội dung Cáo trạng truy tố và thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng pháp luật.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa giữ nguyên quyết định truy tố; sau khi phân tích nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Mạnh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Mạnh D từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 01/8/2019.

Về bồi thường thiệt hại: Ngày 14/11/2019, bị hại chị Nguyễn Thị Th yêu cầu bị cáo Hoàng Mạnh D bồi thường số tài sản bị trộm cắp với tổng số tiền 6.250.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn đồng ý, do đó buộc bị cáo phải bồi thường 6.250.000 đồng cho bị hại.

Về xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô BKS 59K1-189.57, là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 12/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa đã có công văn đề nghị Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Nông tra cứu nhưng không xác định được chủ sở hữu hợp pháp, nên cần chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đi với chị Nguyễn Thị Bích L (chủ tiệm vàng Kim H) đã mua lại số vàng do Hoàng Mạnh D trộm cắp, do chị Liên không biết đây là tài sản do D trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý.

Bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Li khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 31/7/2019, tại tổ dân phố 4, phường Nghĩa Ph, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, Hoàng Mạnh D đã lén lút chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Th 01 đôi bông tai bằng vàng 24K, 02 nhẫn cưới bằng vàng 18K, khoảng 10 chiếc vỏ điện thoại, 01 cưa xăng (đều không rõ nhãn hiệu) và 800.000 đồng tiền mặt.

Ti kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản thì đôi bông tai bằng vàng 24K, có đính đá màu trắng trọng lượng 01 chỉ trị giá 3.750.000 đồng; 02 chiếc nhẫn bằng vàng 18K, có đính đá màu trắng, trọng lượng 01 chỉ trị giá 1.700.000 đồng.

Tng giá trị tài sản trộm cắp là 6.250.000 đồng. Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Hoàng Mạnh D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, cụ thể:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

……”.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất an trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có đủ điều kiện để nhận thức được trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lối sống buông thả, lười lao động, thích hưởng thụ, bị cáo vẫn cố tình thực hiện.

Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 20/02/1998 Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 04/3/2003 Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Ngày 20/9/2007 Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị và giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng và đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo đã ra đầu thú; thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Ngày 14/11/2019, bị hại chị Nguyễn Thị Th yêu cầu bị cáo Hoàng Mạnh D bồi thường số tài sản bị trộm cắp với tổng số tiền 6.250.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn đồng ý, do đó buộc bị cáo phải bồi thường 6.250.000 đồng cho bị hại.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô BKS 59K1-189.57 mà bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng vẫn chưa xác định được chủ sở hữu. Do vậy cần ấn định trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không xác định được ai là chủ sở hữu thì Cơ quan thi hành án có quyền bán sung quỹ Nhà nước.

[7] Đối với chị Nguyễn Thị Bích L (chủ tiệm vàng Kim H) đã mua lại số vàng do Hoàng Mạnh D trộm cắp, do chị L không biết đây là tài sản do D trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý.

[8] Xét các chứng cứ buộc tội và quan điểm xử lý của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo, là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm;

án phí dân sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Mạnh Dương phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Mạnh D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 01/8/2019.

3. Việc bồi thường thiệt hại: Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Hoàng Mạnh D phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Th số tiền 6.250.000 đồng (sáu triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành các khoản tiền trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

4. Việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các khoản 1, 2 Điều 228 của Bộ luật Dân sự.

Trong thời hạn 01 (một) năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không xác định được ai là chủ sở hữu đối với chiếc xe mô tô BKS 59K1-189.57, thì Cơ quan thi hành án có quyền bán sung quỹ Nhà nước.

(vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2019, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa và Chi cục thi hành án dân sự thị xã G).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đim a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hoàng Mạnh D phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 312.500đ (ba trăm mười hai nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:59/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về