Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 337/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2019/QĐST-DS ngày 27 tháng 9 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 120/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10/10/2019, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng D, sinh năm : 1993 (có mặt) Địa chỉ: Thôn Tân Sơn 4, xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

2- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn C, xã XH, huyện LG, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 06/8/2019 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng D trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã XH, huyện LG ngày 28/10/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng nhau, tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng thường xuyên cãi vã, nguyên nhân do tính tình không hợp, anh T ham chơi, thường xuyên chơi điện tử thâu đêm, chơi lô đề dẫn đến nợ nhiều tiền, cũng không quan tâm vợ con, chị và người thân trong gia đình khuyên bảo nhiều song không được. Tháng 5/2018 chị đã viết đơn ly hôn nhưng anh có xin và hứa thay đổi, chị đã cho anh cơ hội, nhưng trong một năm qua anh T vẫn tiếp tục chơi bời, lô đề, điện tử. Chị đã quyết định đưa con về nhà ngoại và sống ly thân từ đầu tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay vợ chồng không còn tình cảm, chị không thể tiếp tục chung sống, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh T, chị không chấp nhận hòa giải, đoàn tụ với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là: Nguyễn Đức A, sinh ngày 23/8/2015. Con hiện khỏe mạnh và đang sống cùng chị. Nay ly hôn, chị đề nghị Tòa án xem xét giao cho chị nuôi con. Chị không yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

Anh Nguyễn Văn T tại bản tự khai ngày 23/9/2019 và các lời khai tiếp theo trình bày xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn như chị D đã khai trên là đúng. Về mâu thuẫn giữa anh và chị D đã xảy ra từ khi yêu nhau, nguyên nhân do có những tính cách, lối sống khác nhau, nhưng do cả hai nghĩ sau khi kết hôn có thể thay đổi được nên đã quyết định kết hôn. Sau khi kết hôn anh, chị về chung sống. Từ đó đến nay, thỉnh thoảng vợ chồng có những mâu thuẫn, cãi vã do tính cách, lối sống khác nhau, vợ chồng không có sự tôn trọng, nhường nhịn nhau, không chia sẻ với nhau về công việc, suy nghĩ, chị D thay đổi chỗ làm cũng không nói cho anh hay. Đầu tháng 8 năm 2019, vợ chồng anh cãi nhau do những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống và do anh đi chơi điện tử, anh có nói vợ chồng không ở được với nhau thì thôi, chị D đã đưa con về nhà ngoại từ đó đến nay. Sau đó, anh đã nói chuyện với chị D và gia đình ngoại, mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị D kiên quyết không về. Nay anh nhận thấy vẫn còn tình cảm, mong muốn vợ chồng đoàn tụ nên không nhất trí ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có con chung như chị D đã trình bày, hiện nay con đang ở cùng mẹ, anh không nhất trí để chị D nuôi con. Anh mong muốn được ở cùng con nếu vợ chồng ly hôn. Nếu được nuôi con, anh không yêu cầu chị D đóng góp tiền cấp dưỡng.

Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản xác minh của Tòa án với đại diện chính quyền địa phương nơi chị D, anh T cư trú xác nhận trong quá trình chung sống chị D và anh T đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T ham chơi điện tử, nợ tiền, không quan tâm đến gia đình, vợ con dẫn đến tình trạng vợ chồng cãi vã, ly thân. Quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án hòa giải, nếu các đương sự kiên quyết không chung sống thì căn cứ quy định của pháp luật để xử ly hôn. Về con chung, đề nghị giao cho chị D nuôi con để đảm bảo cháu được chăm sóc đầy đủ, ổn định.

Tại phiên tòa, chị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, xin được nuôi con và không yêu cầu đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Anh T vắng mặt.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên toà phát biểu ý kiến về việc T theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện nghiêm túc, không có vi phạm, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã đến Tòa án làm việc, có lời khai song không đến tham gia phiên tòa là chưa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng. Về nội dung, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho chị D anh T ly hôn, giao chị D nuôi con chung Nguyễn Đức A, sinh ngày 23/8/2015. Về đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét. Về tài sản chung, công nợ chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn và các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Đơn khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Hồng D cùng các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp là hoàn toàn hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức và nội dung đơn khởi kiện, về chủ thể có quyền khởi kiện. Nguyên đơn đã thực hiện việc thông báo khởi kiện và gửi tài liệu cho bị đơn theo quy định.

[2].Về thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung, các đương sự cư trú tại huyện Lạng Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang theo quy định tại điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã giải quyết vụ kiện theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Thẩm phán, thư ký và HĐXX đã chấp hành đúng pháp luật. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa, nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do, do đó HĐXX căn cứ điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án.

[4]. Về nội dung:

Lời khai của chị Nguyễn Thị Hồng D và anh Nguyễn Văn T đều xác định vợ chồng kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã XH, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang ngày 28/10/2014, Tại giấy chứng nhận kết hôn số 113 ngày 28/10/2014 của UBND xã XH đã ghi rõ, do đó quan hệ hôn nhân của chị Nguyễn Thị Hồng D và anh Nguyễn Văn T là hợp pháp.

Về mâu thuẫn: Lời khai của chị Nguyễn Thị Hồng D xác định chị và anh T chung sống đã xảy ra mâu thuẫn từ năm 2016 vì lý do chính anh T ham chơi lô đề, điện tử thâu đêm, nợ nần nhiều, không quan tâm đến gia đình, vợ con. Chị và gia đình khuyên nhiều nhưng anh T không thay đổi, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng gay gắt. Mặc dù anh T không thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như lời chị D khai mà chỉ xác nhận vợ chồng mâu thuẫn do tính cách, lối sống khác biệt, nhưng qua xác minh tại địa phương, cho thấy giữa anh T và chị D khi chung sống đã mâu thuẫn dẫn đến ly thân và nguyên nhân đúng như chị D khai. Anh T có mong muốn đoàn tụ, Tòa án đã tiến hành hòa giải, nhưng chị D vẫn kiên quyết ly hôn. Xét tình trạng mâu thuẫn giữa chị D và anh T đã trầm trọng, kéo dài, không thể hòa giải, mục đích hôn nhân không đạt được nên HĐXX căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D xử cho chị D và anh T ly hôn.

Về con chung: Chị D và anh T có một con chung Nguyễn Đức A, sinh ngày 23/8/2015. Cả hai đều đề nghị được nuôi con. HĐXX xét thấy cháu Đức A hiện còn nhỏ, chị D có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, có nơi cư trú, phía đại diện chính quyền cũng đề nghị nên giao cháu A cho mẹ nuôi để đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng cháu phù hợp, do vậy HĐXX quyết định giao cho chị D nuôi cháu Nguyễn Đức A.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

Sau khi ly hôn, anh T có quyền thăm con không ai được cản trở.

[5]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[6]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

[7].Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 28, điều 35, điều 39; điều 147; điều 157; điều 228; điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56, 57; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26, 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng D. hôn.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Hồng D và anh Nguyễn Văn T ly Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Hồng D quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Đức A, sinh ngày 23/8/2015.

Về cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét do các đương sự không yêu cầu. Sau khi ly hôn, anh T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp tại biên lai thu số AA/2018/0007368 ngày 29/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyen án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về