Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12/9/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành xét xử công khai vụ án thụ lý số: 179/219/TLST- HNGĐ ngày 13/8/2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/8/2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N; Sinh năm: 1982

Địa chỉ: Thôn E, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2.Bị đơn: Anh Trần Ngọc H; Sinh năm: 1984

Địa chỉ: Thôn E, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 13/8/2019, trong bản tự khai ngày 14/8/2019 và trong phiên hòa giải, chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trần Ngọc H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30/10/2009 tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã H, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ và xúc phạm lẫn nhau. Anh H là người đàn ông gia trưởng và bảo thủ, luôn dằn vặt chị về mặt tinh thần. Chị đã cố gắng chịu đựng và khuyên nhủ nhưng anh H không hề thay đổi tính nết. Chính vì vậy mà vợ chồng đã sóng ly thân từ năm 2015 đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con cái: Vợ chồng có hai con chung là cháu Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 16/6/2010 và Trần Nguyễn Trang A, sinh ngày 18/7/2014. Ly hôn, chị yêu cầu được giao cả hai con cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh H mỗi tháng cho mỗi cháu là 1.000.000đ (Một triệu đồng), hai cháu là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị N không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 14/8/2019 và trong phiên hòa giải, anh Trần Ngọc H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30/10/2009 tại UBND xã H, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận bình thường, đôi lúc có sảy ra cãi cọ nhưng chưa đến mức trầm trọng. Đến năm 2015 thì chị N đi làm ăn xa, vợ chồng xa nhau từ đó nên tình cảm vợ chồng cũng phai nhạt dần. Nay chị N đã trở về và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn. Mặt khác, bản thân anh là người theo đạo thiên chúa, nếu ly hôn anh sẽ có tội nên anh không đồng ý ly hôn với chị N.

Về con cái: Vợ chồng có hai con chung là cháu Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 16/6/2010 và Trần Nguyễn Trang A, sinh ngày 18/7/2014. Nếu ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh mỗi tháng cho mỗi cháu là 1.000.000đ(Một triệu đồng), hai cháu là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ, thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Xét thấy giữa chị N và anh H mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, nghĩ nên chấp yêu cầu của chị N. Đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Về hôn nhân, xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Trần Ngọc H. Về con cái, giao con chung là cháu Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 16/6/2010 và Trần Nguyễn Trang A, sinh ngày 18/7/2014 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị N cấp dưỡng nuôi chung cùng anh H mỗi tháng cho mỗi cháu là 1.000.000đ(Một triệu đồng), hai cháu là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1].Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng như Viện kiểm sát được biết.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, chị N và anh H vắng mặt nhưng đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 BLTTDS, Toà án xét xử vắng mặt chị N và anh H.

[3].Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Trần Ngọc H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30/10/2009 tại UBND xã H, huyện N, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân gia đình, như vậy là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định Điều 28 BLTTDS. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận được 05 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tình tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên hay sảy ra cãi cọ, không tôn trọng nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Vợ chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải nhưng vẫn không thể hòa hợp được. Từ năm 2015 đến nay chị N và anh H đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Việc này đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận, đồng thời cũng phù hợp với kết quả mà Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương. Mặc dù anh H không đồng ý ly hôn nhưng chị N nhất quyết đòi ly hôn với anh H, chị N cũng đã có đơn đề nghị Tòa án không tiếp tục tiến hành hòa giải nữa. Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, nghĩ nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị N được ly hôn với anh H.

[4].Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung. Cả chị N và anh H đều yêu cầu được giao cả hai cháu cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị N cấp dưỡng nuôi chung cùng anh H mỗi tháng cho mỗi cháu là 1.000.000đ (Một triệu đồng), hai cháu là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/tháng. Bản thân cháu K cũng có nguyện vọng được ở với bố. Nghĩ nên chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị N và anh H. Giao hai con chung là cháu Trần Nguyễn Anh K và Trần Nguyễn Trang A cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị N cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh H mỗi tháng cho mỗi cháu là là 1.000.000đ (Một triệu đồng), hai cháu là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/tháng.

[5].Về tài sản: Chị N và anh H không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

[6].Về án phí: Chị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Trần Ngọc H.

2. Về con cái: Giao con chung là cháu Trần Nguyễn Anh K, sinh ngày 16/6/2010 và Trần Nguyễn Trang A, sinh ngày 18/7/2014 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. chị N cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh H mỗi tháng cho mỗi cháu là là 1.000.000đ (Một triệu đồng), hai cháu là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/tháng. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 9/2019 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc đến khi các đương sự có yêu cầu khác. Khoản tiền cấp dưỡng được thi hành ngay mặc dù bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Chị N có quyền qua lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Kể từ khi anh H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì hàng tháng chị N còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357; Khoản 2 Điều 468 BLDS trên số tiền phải thi hành án, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí DSST về việc cấp dưỡng nuôi con, nhưng được trừ vào số tiền chị N đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự Thạch Thành, theo biên lai số: AA/2016/0003742 ngày 13/8/2019. Chị N còn phải nộp tiếp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị N và anh H. Chị N và anh H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về