Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 04 tháng 7 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 290/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1983; thường trú: xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: 19/7C khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Anh Lê Như T, sinh năm 1981; thường trú: xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: 19/7C khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Chị Nguyễn Thị L có yêu cầu giải quyết vắng mặt, anh Lê Như T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 27/3/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Như T có thời gian tìm hiểu nhau 02 năm thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q1, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 11 quyển số 01 ngày 12/6/2003.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà ba mẹ chồng ở địa chỉ khu công nghiệp Tân Bình, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Vợ chồng đều làm công nhân, thu nhập bấp bênh. Thu nhập của chị L trung bình 7.500.000 đồng/tháng, còn anh T khoảng 7.000.000 đồng – 8.000.000 đồng/tháng. Khoảng năm 2013, vợ chồng về ở trọ tại 19/7C khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương cho đến nay. Trong thời gian này, chị L nghi ngờ anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, nên từ việc đó, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không tôn trọng nhau, không có tiếng nói chung, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, quan hệ hôn nhân rạn nứt, vợ chồng không còn tình cảm gì với nhau. Gia đình hai bên đều biết mâu thuẫn của vợ chồng, có hòa giải nhưng không được. Hiện nay, anh chị vẫn đang chung sống với nhau nhưng anh T thỉnh thoảng lại bỏ đi mấy ngày mới về, đi đâu không nói cho chị L biết. Vợ chồng ly thân từ năm 2013 cho đến nay, không còn quan tâm và cùng nhau chăm sóc con. Nay chị Nguyễn Thị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Lê Như T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Quốc H, sinh ngày 01/9/2005. Con đang sống cùng với anh chị. Sau khi ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Lê Như T đã được Toà án thông báo tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh Lê Như T không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố nào, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ngày 10/4/2019, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống giữa chị Nguyễn Thị L và anh Lê Như T tại địa phương và được cung cấp: Hội liên hiệp phụ nữ phường T không nhận được đơn đề nghị hòa giải quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị L và anh Lê Như T. Đồng thời Hội cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị, do đó không biết rõ giữa hai anh chị có mâu thuẫn như thế nào.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án: nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự và có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cháu Lê Quốc H, sinh ngày 01/9/2005 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị L không yêu cầu anh Lê Như T cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 14/6/2019 và ngày 04/7/2019 nhưng bị đơn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Như T tìm hiểu nhau 02 năm thì tổ chức lễ cưới, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q1, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 11 quyển số 01 ngày 12/6/2003 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, chị Nguyễn Thị L cho rằng từ năm 2013 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị L nghi ngờ anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, nên từ việc đó, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không tôn trọng nhau, không có tiếng nói chung, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, quan hệ hôn nhân rạn nứt, vợ chồng không còn tình cảm gì với nhau. Gia đình hai bên đều biết mâu thuẫn của vợ chồng, có hòa giải nhưng không được. Hiện nay, anh chị vẫn đang chung sống với nhau nhưng anh T thỉnh thoảng lại bỏ đi mấy ngày mới về, đi đâu không nói cho chị L biết. Vợ chồng ly thân từ năm 2013 cho đến nay, không còn quan tâm và cùng nhau chăm sóc con.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và đã nhiều lần triệu tập anh Lê Như T đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Lê Như T không có mặt, chị Nguyễn Thị L cũng có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải với anh Lê Như T. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của anh chị đã thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc anh Lê Như T bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị Nguyễn Thị L cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị Nguyễn Thị L và anh Lê Như T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của chị Nguyễn Thị L.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Lê Quốc H, sinh ngày 01/9/2005.

Xét, trong suốt quá trình tố tụng, anh T vắng mặt nên không có ý kiến về việc nuôi con chung. Cháu H đang sống cùng anh chị, tuy nhiên, anh T không thường xuyên ở nhà nên chị L là người trực tiếp chăm sóc nuôi dạy con. Chị làm công nhân tại Công ty TNHH Joon Saigon với thu nhập ổn định 8.000.000 đồng/tháng nên có thể đảm bảo những điều kiện phát triển tốt cho con. Xét thấy, khi giải quyết ly hôn, việc giao con cho cha hay mẹ nuôi thì phải đảm bảo được sự phát triển toàn diện về mọi mặt cho đứa trẻ. Bên cạnh đó, theo nguyện vọng của cháu Lê Quốc H, khi cha mẹ ly hôn cháu muốn được sống cùng với chị L. Từ những nhận định trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị L về việc được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cháu Lê Quốc H. Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L đối với anh Lê Như T về việc ly hôn.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Lê Như T.

- Về con chung: Anh Lê Như T có trách nhiệm giao con chung tên Lê Quốc H, sinh ngày 01/9/2005 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị L không yêu cầu anh Lê Như T cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị L và anh Lê Như T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Lê Như T lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Nguyễn Thị L nuôi con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028327, ngày 04/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Chị Nguyễn Thị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Án xử công khai, tuyên án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

4. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về