TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P – TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 59/2019/DS-ST NGÀY 07/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 50/2018/TLST-DS ngày 11/12/2018 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 262/2019/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 02 năm 2019 và Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số: 372/2019/QĐ-CA ngày 05/3/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị C, sinh năm 1961. Nơi cư trú: Số 122/1, ấp GH, xã GT, huyện P, tỉnh Bến Tre.
Đại diện theo ủy quyền của bà C: ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1962. Trú cùng địa chỉ với bà C. (Có mặt)
2. Bị đơn: Huỳnh Thị H, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Số 56/1, ấp GT, xã GT, huyện P, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 10/12/2018, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Nguyễn Thị C là ông Nguyễn Văn N trình bày:
Vào ngày 10/8/2018 (âm lịch) bà Huỳnh Thị H có vay của bà Nguyễn Thị C số tiền 62.700.000 (Sáu mươi hai triệu, bảy trăm nghìn) đồng, cho vay trong thời hạn 10 ngày để bà H trả nợ đáo hạn ngân hàng. Khi vay tiền hai bên có làm giấy mượn tiền và bà H có ký tên xác nhận nợ, nhưng đến nay bà H chưa trả lại tiền cho bà C.
Tại phiên tòa ông yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà Huỳnh Thị H (không yêu cầu chồng bà H có nghĩa vụ liên đới với bà H) có nghĩa vụ trả số tiền 62.700.000 (Sáu mươi hai triệu, bảy trăm nghìn) đồng cho bà Nguyễn Thị C. Ông yêu cầu trả một lần, không yêu cầu tính lãi.
Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn bà Huỳnh Thị H trình bày:
Bà thừa nhận có ký tên vào giấy mượn tiền ngày 10/8/2018 (âm lịch) để xác nhận nợ và hiện nay bà còn nợ của bà Nguyễn Thị C số tiền 62.700.000 (Sáu mươi hai triệu, bảy trăm nghìn) đồng, trong số tiền này nợ gốc 45.000.000 đồng, nợ tiền lãi 17.700.000 đồng nhưng do bà không có chứng cứ để chứng minh số tiền gốc và tiền lãi.
Tại phiên tòa bà đồng ý trả cho bà C số tiền là 62.700.000 (Sáu mươi hai triệu, bảy trăm nghìn) đồng, nhưng do hiện nay hoàn cảnh khó khăn nên xin được trả dần trong thời hạn 03 năm hết nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn Nguyễn Thị C tranh chấp hợp đồng vay tài sản với bị đơn bà Huỳnh Thị H theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; theo điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P.
[2] Hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị C với bị đơn bà Huỳnh Thị H được giao kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, không bên nào bị lừa dối hoặc bị ép buộc; cả hai đều có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nên được xem là hợp đồng hợp pháp theo quy định tại Điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015.
[3] Qua tố tụng tại Tòa án bà Huỳnh Thị H đã thừa nhận còn nợ của bà Nguyễn Thị C số tiền 62.700.000 (Sáu mươi hai triệu, bảy trăm nghìn) đồng và yêu cầu xin được trả dần trong thời hạn ba năm hết nợ. Tại tòa ông N được bà C ủy quyền không đồng ý yêu cầu của bà H và xét thấy khi hai bên giao kết hợp đồng vay tài sản không có thỏa thuận thời hạn trả dần nên yêu cầu của bà H không được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Xét trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa ông N được bà C ủy quyền cho rằng: tiền vay là tiền cá nhân của bà C, chỉ một mình bà H vay tiền với bà C nên yêu cầu cá nhân bà H phải trả, xét thấy đây là sự tự nguyện nên được chấp nhận.
[4] Từ những phân tích trên yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 463,466 Bộ luật dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bà Huỳnh Thị H phải có nghĩa vụ trả cho bà C số tiền 62.700.000 (Sáu mươi hai triệu, bảy trăm nghìn) đồng. Bà C không yêu cầu trả lãi nên không xem xét.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị C được Tòa án chấp nhận nên bà Huỳnh Thị H phải có nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Số tiền án phí bà H phải nộp (62.700.000 đồng x 5%) là: 3.135.000 (Ba triệu, một trăm ba mươi lăm nghìn) đồng.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C. Buộc bà Huỳnh Thị H phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị C số tiền 62.700.000 (Sáu mươi hai triệu, bảy trăm nghìn) đồng.
Kể từ ngày Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Huỳnh Thị H phải nộp 3.135.000 (Ba triệu, một trăm ba mươi lăm nghìn) đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Bến Tre.
Bà Nguyễn Thị C được Chi cục thi hành án dân sự huyện P hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.567.500 (Một triệu, năm trăm sáu mươi bảy nghìn, năm trăm) đồng theo biên lai thu số 0021534 ngày 11/12/2018.
Đương sự có mặt được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 59/2019/DS-ST ngày 07/03/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 59/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 07/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về