Bản án 59/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 59/2017/HSST NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 50/2017/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2017 đối với:

Bị cáo Nguyễn Văn T; Sinh năm 1989 tại Thanh Hóa; Trú tại: thôn 2, xã Hoằng Đ, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Con ông Nguyễn Văn D và bà Hoàng Thị V; Vợ, con: Chưa; Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị bắt và tạm giam kể từ ngày 14/12/2016 đến ngày 12/3/2017, đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp và là người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn T là ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1958; Trú tại thôn 2, xã Hoằng Đồ, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, là bố đẻ của bị cáo, có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 09h20’ngày 14/12/2016 Đội cảnh sát điều tra Công an huyện Hoằng Hóa phối hợp với Ban Công an xã Hoằng Đ phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn T đang bán trái phép chất ma túy cho Lê Hữu C ở xã Hoằng T và Lê Bá T ở xã Hoằng Đ. Thu tại trong túi quần bên phải của Lê Hữu C 02 gói giấy nhỏ bên trong có chất bột màu trắng ngà, thu giữ trong túi quần bên trái của Nguyễn Văn T số tiền 200.000 đồng, 01 điện thoại di động màu trắng - vàng nhãn hiệu Mobistar và thu ở cạp quần của T một điện thoại di động màu đen hiệu Neoson không có pin bên trong có 03 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong 02 gói giấy nhỏ màu trắng thu trên người Lê Hữu C ký hiệu M1; 03 gói giấy màu trắng thu trong điện thoại của Nguyễn Văn T ký hiệu M2 để trưng cầu giám định.Tại bản kết luận giám định số 142/PC54-MT ngày 15/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng ngà của phong bì ký hiệu M1 có trọng lượng là 0,048 gam có thành phần heroin.

Tại bản kết luận giám định số 143/PC54-MT ngày 12/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng ngà của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định có trọng lượng là 0,073 gam có thành phần heroin.

Tại kết luận giám định số 1414/MT-PC54 ngày 15/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong số 142/PC54-MT có hàm lượng heroin là 60,60%. Chất bột màu trắng ngà của phong bì niêm phong số 143/PC54-MT có hàm lượng heroin 65,15%.

Quá trình điều tra truy tố Nguyễn Văn T khai nhận: Vào khoảng 08h50’ngày 14/12/2016 Nguyễn Văn T đang ở nhà tại thôn 2, xã Hoằng Đ thì nhận được điện thoại của Lê Hữu C hỏi mua ma túy. T đồng ý bán và hẹn C ra cổng sau nhà nghỉ 559 thuộc thôn 1, xã Hoằng Đ. Khoảng 10 phút sau thì C ra địa điểm hẹn, C hỏi mua 200.000 đồng. T đồng ý nhận tiền và đưa cho C 02 tép ma túy, hai bên đang thực hiện mua bán thì bị bắt quả tang. Nguồn gốc số ma túy T khai là nhận của Hoàng Ngọc C ở cùng xã vào tối ngày 13/12/2016. Trong giai đoạn điều tra, bị cáo có biểu hiện tâm thần, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoằng Hóa đã Quyết định trưng cầu giánm định đối với bị cáo Nguyễn Văn T. Kết luận giám định pháp y tâm thần số 90/KLGĐ ngày 11/4/2017 của Viện Pháp y tâm thần Trung ương kết luận: Trước, trong khi thực hiện hành vi gây án và tại thời điểm giám định bị can Nguyễn Văn T có bệnh tâm thần phân liệt thể paranoid. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 có mã số F20.0. Tại các thời điểm trên bệnh ở giai đoạn thuyên giảm, bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại bản cáo trạng số 55 Ctr/VKS-HH ngày 01 tháng 6 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã công bố. Ông Nguyễn Văn D là người đại diện hợp pháp cho bị cáo công nhận những lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cũng như ở cơ quan điều tra là đúng.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên và sau khi đánh giá tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm n, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật Hình sự, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, bản tự khai, lời khai tại cơ quan điều tra, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 09h20’ngày 14/12/2016 Công an huyện H bắt quả tang Nguyễn Văn T đang bán trái phép chất ma túy cho Lê Hữu C. Thu tại trong túi quần bên phải của Lê Hữu Cường 02 gói giấy nhỏ bên trong có chất bột màu trắng ngà, thu giữ trong túi quần bên trái của Nguyễn Văn T số tiền 200.000 đồng, 01 điện thoại di động màu trắng - vàng nhãn hiệu Mobistar và thu ở cạp quần của T một điện thoại di động màu đen hiệu Neoson không có pin bên trong có 03 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong: 02 gói giấy nhỏ màu trắng thu trên người Lê Hữu C ký hiệu M1; 03 gói giấy màu trắng thu trong điện thoại của Nguyễn Văn T ký hiệu M2 để trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 142/PC54-MT ngày 16/12/2016  của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng ngà của phong bì ký hiệu M1 có trọng lượng là 0,048 gam có thành phần heroin. Hàm lượng heroin 60,60%.

Tại bản kết luận giám định số 143/PC54-MT ngày 12/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng ngà của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định có trọng lượng là 0,073 gam có thành phần heroin. Hàm lượng heroin 65,15%.

Hành vi mua bán trái phép ma túy của bị cáo Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm, hình phạt được quy định và trừng trị tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất của vụ án thì thấy: Hành vi bán trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn T đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây suy thoái về đạo đức, băng hoại giống nòi. Do đó phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục bị cáo, giáo dục chung cho xã hội và cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo.

Xét về tình tiết tặng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bố bị cáo là ông Nguyễn Văn D có thành tích được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công. Do đó áp dụng các quy định của khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự để lượng giảm cho bị cáo một phần hình phạt tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo tốt và thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

Về vật chứng: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Hai chiếc điện thoại di động của bị cáo đã thu giữ, bị cáo dùng vào việc phạm tội đã cũ không còn giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.

Số tiền 200.000 đồng là số tiền bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

¸p dụng: Khoản 1 Điều 194, điểm n, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 02 (Hai) năm tù, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 14/12/2016 đến ngày 12/3/2017. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt đi thi hành án hình sự.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy số heroin còn lại sau giám định (Theo phong bì niêm phong tại biên bản giao nhận vật chứng số 73/BBGN ngày 19/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa).

- Tịch thu tiêu hủy hai chiếc điện thoại di động (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 57/BBGN ngày 06/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa).

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (Theo biên lai thu tiền số AA/003408 ngày 26/12/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thi người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về