Bản án 59/2017/HNGĐ-ST ngày 13/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 59/2017/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 13 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 316/2017/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2017 về việc Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1964 (có mặt) Địa chỉ: ấp A, xã Thạnh Phú, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T (Bé Tư), sinh năm 1973 (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: ấp A, xã Thạnh Phú, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Chổ ở hiện nay: ấp R, xã Nhị Long, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/6/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ph trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn T chung sống với nhau vào năm 1994, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, thường hay mâu thuẩn trong gia đình, ông T có người đàn bà khác bên ngoài. Từ đó, bà và ông T không còn chung sống với nhau từ năm 2012 đến nay.

Trong quá trình chung sống: có 01 con chung tên Nguyễn Thị Cẩm T, sinh 1995 hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Nay bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: bà Nguyễn Thị Ph khai không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Ph chung sống với nhau vào năm 1994 quá trình chung sống không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đến năm 1995 thì có 01 con chung tên Nguyễn Thị Cẩm T, hiện nay đã trưởng thành và đang làm thuê tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian chung sống do bất đồng quan điểm sống thường hay cự cải và hai người không còn chung sống với nhau từ năm 2012 đến nay.

Nay bà Nguyễn Thị Ph yêu cầu ly hôn với ông thì xét thấy tình cảm không còn yêu thương nhau nữa nên đồng ý ly hôn với bà Nguyễn Thị Ph.

Về con chung: do con đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Do bận công việc nên ông Nguyễn Văn T làm đơn xin giải quyết vắng mặt, nên Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Ph có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh giải quyết việc hôn nhân của bà. Theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Tại Tòa ông Nguyễn Văn T làm đơn xin giải quyết vắng mặt, nên Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1994, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T là do hay cự cãi, mâu thuẫn trong gia đình, sống chung không hạnh phúc và hai người đã không còn sống chung với nhau từ năm 2012 cho đến nay.

Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T xảy ra trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại Tòa bà Nguyễn Thị Ph yêu cầu được ly hôn, ông Nguyễn Văn T cũng đồng ý ly hôn với bà Nguyễn Thị Ph, do Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T chung sống với nhau nhưng không có đăng ký kết hôn đồng thời cả hai không còn chung sống với nhau từ năm 2012 đến nay, nên căn cứ vào Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình thì bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T không được công nhận là vợ chồng.

- Về con chung: bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T khai có 01 con chung tên Nguyễn Thị Cẩm T, hiện nay đã trưởng thành và đang làm thuê tại thành phố Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về án phí: đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39; 147; Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 14, 51 và 53 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không công nhận bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T là vợ chồng.

- Về con chung: bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: bà Nguyễn Thị Ph và ông Nguyễn Văn T khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: bà Nguyễn Thị Ph phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0011009 ngày 27 tháng 6 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cầu Kè; bà Nguyễn Thị Ph đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2017/HNGĐ-ST ngày 13/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:59/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về