TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 589/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA ANH C VÀ CHỊ P
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý 456/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Trần Hữu C, sinh năm 1994; Đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm H2, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: số 168 đường P, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có mặt
Bị đơn: Chị Ngô Thị Hoài P, sinh năm 1992; Nơi cư trú: số nhà 9/35 Nam Cao, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Vắng mặt tại phiên tòa lần 2.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình đề ngày 05-5-2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn là anh Trần Hữu C trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Ngô Thị Hoài P kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định ngày 31-7-2018. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm lối sống, bất đồng về kinh tế nên vợ chồng thường xảy ra xô xát, cãi vã. Do mâu thuẫn căng thẳng nên từ tháng 5 năm 2019 vợ chồng anh đã sống ly thân, chị P đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Nay anh C xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị P không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị P.
Về con chung: Anh C xác định vợ chồng có một con chung là Trần Quốc H, sinh ngày 25-4-2019, giới tính Nam. Hiện nay cháu Huy đang ở cùng với chị P. Về việc nuôi con: Anh C nhất trí để chị P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Huy. Về cấp dưỡng nuôi con: anh C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi, lao động tự lập được.
Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh C xác định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là chị Ngô Thị Hoài P đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng chị P không đến Tòa án để làm bản tự khai, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa nên chị P không có quan điểm để giải quyết vụ án.
Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ ngày 20-10-2020 tại Ủy ban nhân dân phường L xác nhận: Quá trình chung sống vợ chồng anh C và chị P thường xảy ra mâu thuẫn, hiện tại chị P đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại số nhà 9/35 Nam Cao, phường L, thành phố Nam Định ở và vợ chồng anh chị đã sống ly thân. Về con chung: Vợ chồng anh C và chị P có một con chung là Trần Quốc, sinh ngày 25-4-2019, giới tính nam. Hiện tại cháu Huy đang ở cùng với chị P.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự như sau: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn, quá trình giải quyết vụ án đã không cung cấp bản tự khai, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, 02 lần vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do. Như vậy bị đơn đã từ bỏ các quyền và nghĩa vụ của mình. Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa anh C và chị P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa anh C và chị P. Về con chung: cháu Trần Quốc H hiện tại đang ở cùng với chị P và chưa đủ 36 tháng tuổi nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nguyện vọng của anh C giao con Trần Quốc H cho chị P chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: anh C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về tài sản chung và vay nợ chung: anh C không đề nghị giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn là chị Ngô Thị Hoài P. Tại phiên tòa chị P vắng mặt lần 2 nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Hữu C và chị Ngô Thị Hoài P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Mỹ Lộc vào năm 2018 nên hôn nhân giữa anh C và chị P là hôn nhân hợp pháp.
[3] Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau khi kết hôn anh C và chị P sống hòa thuận một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm. Do mâu thuẫn kéo dài nên từ tháng 5 năm 2019 vợ chồng anh chị đã sống ly thân và không còn quan tâm chăm sóc dến nhau. Nay anh C xác định tình cảm vợ chồng không còn và có nguyện vọng được ly hôn với chị P. Đối với chị P, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng chị P không đến Tòa án để viết bản tự khai và không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tại phiên tòa chị P vẫn vắng mặt không có lý do thể hiện việc chị P không có thiện chí hòa giải, giải quyết mâu thuẫn vợ chồng và việc nuôi con. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh C và chị P đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử có căn cứ cho ly hôn giữa anh C và chị P theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về tranh chấp nuôi con: Anh C nhất trí để chị P trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con sau khi vợ chồng ly hôn. Xét thấy, cháu Huy hiện đang sinh sống ổn định cùng chị P và cũng chưa đủ 36 tháng tuổi. Tuy chị P không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như tại phiên tòa để trình bày về việc nuôi con cũng như về cấp dưỡng nuôi con nhưng xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử có căn cứ giao con là Trần Quốc H cho chị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng. Xét việc anh C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh C là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu toàn bộ án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa anh Trần Hữu C và chị Ngô Thị Hoài P.
2. Về việc nuôi con chung: Giao con Trần Quốc H, sinh ngày 25-4-2019, giới tính Nam cho chị Ngô Thị Hoài P trực tiếp trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: anh Trần Hữu C tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng một tháng) kể từ tháng 12 năm 2020 đến khi con chung đủ 18 tuổi, lao động tự lập được.
Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.
Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Trần Hữu C phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) anh Trần Hữu C đã nộp tại biên lai số 0003210 ngày 06-10-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định. Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Trần Hữu C phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Hữu C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Ngô Thị Hoài P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 589/2020/HNGĐ-ST ngày 25/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa anh C và chị P
Số hiệu: | 589/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về