Bản án 586/2020/HSST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 586/2020/HSST NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 579/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 587/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên Phùng Văn Tr, sinh ngày 22 tháng 10 năm 1980 Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở tổ 06, phường T.L, thành phố TN, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo : Không; nghề nghiệp : Không. Tr độ học vấn: 12/12. Con ông Phùng Văn T, sinh năm 1958, con bà Trần Thị T1, sinh năm 1957. Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất. Có vợ Nguyễn Thị N, sinh năm 1983, có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2006. Tiền án: Không.

- Tiền sự: Tại Quyết định số 114/2019/QĐ-TA ngày 01/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại cơ sở tư vấn và điều trị cai nghiện ma túy tỉnh TN, thời gian chấp hành 13 tháng. Ngày 15/05/2020, chấp hành xong quyết định.

- Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 04/QĐ-XPHC ngày 28/03/2012 của Công an phường Hương Sơn, thành phố TN xử phạt: 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 10/5/2012, Công an phường Hương Sơn đã lập biên bản xác minh về việc Tr không có điều kiện thực hiện hình phạt tiền của quyết định trên.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2020 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến: Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1971, địa chỉ tổ 10, phường G.S, thành phố TN (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 20 phút ngày 18/9/2020, tổ công tác của Công an phường G.S, thành phố TN làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ 01, phường G.S, thành phố TN thì phát hiện một người nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, người nam giới trên khai tên là Phùng Văn Tr. Quá Tr kiểm tra, Tr tự giác giao nộp từ lòng bàn tay phải 01 gói giấy màu trắng dạng giấy vệ sinh, bên trong có 03 gói giấy nhỏ bằng giấy bạc màu trắng, bên trong cả 03 gói đều chứa chất bột màu trắng. Tr khai là Heroine của Tr mua để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phùng Văn Tr và niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN tiến hành mở niêm phong , cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ cuả Tr có khối lượng 0,276 gam (niêm phong ký hiệu T gửi giám định).

Tại Kết luận giám định số 1209/KL-KTHS ngày 26/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận : Mẫu chất màu trắng trong bì ký hiệu T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,276 gam Tại Cơ quan điều tra, Phùng Văn Tr khai nhận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/9/2020, Tr đi xe ôm từ nhà ở tổ 6, phường T.L, thành phố TN đến khu vực chợ G.S thuộc phường G.S, thành phố TN để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Tr gặp và hỏi mua Heroine của một nam thanh niên không quen biết với giá 100.000 đồng. Người thanh niên này đồng ý, cầm tiền và bảo Tr ngồi lên sau xe mô tô rồi chở Tr đi vào ngõ nhỏ cách chợ G.S khoảng 50 mét thì dừng xe lại chỉ cho Tr 01 gói giấy màu trắng ở sát tường nhà dân. Tr xuống xe nhặt gói giấy màu trắng, cầm trong lòng bàn tay phải, đi bộ tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường G.S, thành phố TN bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Phùng Văn Tr phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng cuả vụ án là : 01 (một) Bì niêm phong theo quy định, ký hiệu T (bên trong có chứa ma túy). Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 566/CT-VKSTPTN ngày 06 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Phùng Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội, tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Phùng Văn Tr về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Phùng Văn Tr từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội. Nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá Tr điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, Tr tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 14 giờ 20 phút ngày 18/9/2020, tại khu vực tổ 01, phường G.S, thành phố TN, Phùng Văn Tr có hành vi tàng trữ 0,276 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường G.S, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,276 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển , sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ...

c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện; hơn nữa khi sử dụng ma túy dẫn đến kích thích thần kinh làm mất hết lý trí có thể gây ra nhiều tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

5.1. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, có một tiền sự, năm 2019 Tòa án nhân dân thành phố TN ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 13 tháng, ngày 15/5/2020 mới chấp hành xong.

Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2012 bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

5.2. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

5.3. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân mặc dù đã được Nhà nước cho đi chữa bệnh tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy được nên tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật, có ý thức chấp hành, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[6] Vật chứng của vụ án: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T (bên trong có chứa ma túy) là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí - Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, theo Phùng Văn Tr khai đã mua của một nam thanh niên không rõ lai lịch , địa chỉ tai khu vưc chợ G.S thuộc phường G.S, thành phố Thái Nguyên . Quá Tr điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên, Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

1. Bị cáo Phùng Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Phùng Văn Tr 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/9/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN (bên trong có chứa Herôine), mặt sau bì niêm phong có 02 (hai) hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN và chữ ký ghi họ tên Trương Đăng T và Phạm Anh T3.

Biên bản giao nhận vật chứng số 137 ngày 19/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 586/2020/HSST ngày 11/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:586/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về