Bản án 58/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL

BẢN ÁN 58/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2021/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

NNC, sinh năm 1994, tại MC, SL; Nơi ĐKHKTT: TK2, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị H, sinh 1970; có vợ là Lò Thị L; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/3/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

LVK, sinh ngày 24/10/2000, tại ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Tiểu khu HI, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn L, sinh năm 1976 và bà Lò Thị T, sinh 1983; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có án tích; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/3/2021 đến ngày 11/3/2021 bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/3/2021; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà.

Người bị hại:

Anh LVP, sinh 1996, địa chỉ: Bản MP, xã CH, huyện ML, tỉnh SL. Có đề nghị xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo NNC, LVK bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 04/3/2021 NNC, sinh năm 1994, ở TK2, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh SL đến hát karaoke tại quán Thiên Thanh thuộc tiểu khu 5, thị trấn IO, huyện ML. Lúc đầu NNC hát tại phòng số 2, sau đó có khách đến nên đổi sang hát phòng số 3, tại đây NNC và LVK sinh ngày 24/10/2000 ở tiểu khu HI, thị trấn IO, huyện ML (nhân viên của quán Thiên Thanh) là bạn NNC cùng hát đến 23 giờ thì nghỉ, khi ra bàn uống nước gần quầy thanh toán NNC nhìn thấy một chiếc áo khoác màu đen dài tay nam giới để trên ghế. NNC cầm áo kiểm tra túi thấy có ví da màu đen, bên trong có thẻ ATM Ngân hàng Agribank mang tên LVP và một số giấy tờ mang số tự nhiên; số tiền 1.300.000, đồng và các giấy tờ tùy thân khác, lúc này LVK cũng nhìn thấy. NNC nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trên bảo LVK lấy xe máy chở về nhà mình, tại nhà NNC và LVK kiểm tra lại và phát hiện mật khẩu của chiếc thẻ ATM là 958070, NNC bảo LVK đèo ra cây ATM của Ngân hàng Agribank ML, tại đây NNC vào rút tiền được 5.000.000, đồng, hai người đi về nhà NNC. Sau đó LVK đi về trên đường về vứt chiếc áo, ví da vào thùng rác và đi đến quán điện tử KINGGAMEMING ở tiểu khu 5, thị trấn IO, huyện ML chơi điện tử, khoảng vài phút thì NNC đến đưa cho LVK số tiền 1.300.000, đồng. Sáng hôm sau NNC nhắn tin cho LVK đến lấy thẻ và bảo ra cây ATM của Ngân hàng BIDV ML rút tiếp tiền, nhưng không rút được tiền, LVK mang thẻ và bản sao kê tài khoản về đưa cho NNC.

Người bị hại: Anh LVP, sinh 1996, địa chỉ: Bản MP, xã CH, huyện ML, tỉnh SL mất tài sản có đơn trình báo Công an.

Thu giữ vật chứng gồm:

01 chiếc thẻ ATM của Ngân hàng Agribank số 9704050864732561 mang tên LO VAN PHAP;

01 giấy ghi VAN TIN SO DU TAI KHOAN của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV;

01 chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ nhãn hiệu Nón Sơn;

01 chiếc áo màu xanh màu xanh xám nhạt, loại áo của công nhân điện lực, phía trước áo có chữ LÒ VĂN THANH.

01 chiếc áo nhãn hiệu SANTINO loại áo nỉ dài tay, màu trắng xám, hai bên ngực phía trước áo có màu đen;

01 chiếc quần nỉ màu trắng xám nhãn hiệu SANTINO;

01 đôi giầy thể thao nhãn hiệu FASHION DESIGN phần đế giầy màu trắng, phần bên trên màu xám.

Tổng giá trị các bị cáo chiếm đoạt là 6.300.000, đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại giá trị tài sản bị chiếm đoạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo NNC đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Bản cáo trạng số: 26/VKSML ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, tỉnh SL truy tố bị cáo: NNC và LVK về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo NNC và LVK phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo NNC từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo LVK từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách cho bị cáo.

Không áp dụng hình phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 589 của Bộ luật Dân sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc bị cáo LVK và anh LVP đã thỏa thuận bồi thường là 6.300.000, đồng đã nhận đủ và anh LVP không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Trả lại cho người bị hại anh LVP: 01 chiếc thẻ ATM của Ngân hàng Agribank số 9704050864732561 mang tên LO VAN PHAP.

Tịch thu tiêu hủy:

01 giấy ghi VAN TIN SO DU TAI KHOAN của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV.

Trả lại cho NNC: 01 chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ nhãn hiệu Nón Sơn; 01 chiếc áo màu xanh màu xanh xám nhạt, loại áo của công nhân điện lực, phía trước áo có chữ LÒ VĂN THANH.

Trả lại cho LVK: 01 chiếc áo nhãn hiệu SANTINO loại áo nỉ dài tay, màu trắng xám, hai bên ngực phía trước áo có màu đen; 01 chiếc quần nỉ màu trắng xám nhãn hiệu SANTINO; 01 đôi giầy thể thao nhãn hiệu FASHION DESIGN phần đế giầy màu trắng, phần bên trên màu xám.

Đối với chiếc áo, ví da và các giấy tờ trong ví không thu hồi được người bị hại anh LVP không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường.

Đối với chiếc xe máy LVK và NNC chở nhau sau khi chiếm đoạt tài sản, LVK khai mượn của Lò Văn Hưng ở Chiềng Lao, ML khi mượn không nói dùng xe để phạm tội. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không tìm được người tên Lò Văn Hưng, nên không có căn cứ xem xét giải quyết.

Đối với khoản tiền bồi thường LVK đã bồi thường trả cho người bị hại 6.300.000, đồng. LVK không yêu cầu NNC hoàn trả lại theo phần, cần chấp nhận.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. các bị cáo, người bị hại đều nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà bị cáo NNC và LVK thừa nhận: Đêm ngày 04/3/2021 đã lén lút, bí mật chiếm đoạt 6.300.000, đồng của anh LVP.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập: Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; đơn trình báo của người bị hại, lời khai của người làm chứng, lời khai của người liên quan, vật chứng của vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 6.300.000, đồng của các bị cáo NNC và LVK đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự an toàn xã hội, do đó bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

[3]. Xét về đồng phạm: Bị cáo NNC là người khởi xướng, rủ rê. Bị cáo LVK là người cùng thực hiện việc trộm cắp với vai trò thứ yếu. Các bị cáo đồng phạm giản đơn. Cần căn cứ Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt cho các bị cáo.

[4]. Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo NNC có nhân thân không tốt là đối tượng có sử dụng ma túy; chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo ra đầu thú; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 Bị cáo LVK có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành đúng Chính sách, Pháp luật, thực hiện các nghĩa vụ công dân, chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú cụ thể rõ ràng; được gia đình bị cáo và chính quyền địa phương có đơn bảo lãnh, bị cáo ra đầu thú, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Từ các căn cứ trên xét thấy bị cáo LVK có đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định của khoản 1, 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với các bị cáo do không có tài sản.

[5]. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 589 của Bộ luật Dân sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc bị cáo LVK và anh LVP đã thỏa thuận bồi thường là 6.300.000, đồng đã nhận đủ và anh LVP không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Trả lại cho người bị hại anh LVP: 01 chiếc thẻ ATM của Ngân hàng Agribank số 9704050864732561 mang tên LO VAN PHAP.

Tịch thu tiêu hủy:

01 giấy ghi VAN TIN SO DU TAI KHOAN của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV.

Trả lại cho NNC: 01 chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ nhãn hiệu Nón Sơn; 01 chiếc áo màu xanh màu xanh xám nhạt, loại áo của công nhân điện lực, phía trước áo có chữ LÒ VĂN THANH.

Trả lại cho LVK: 01 chiếc áo nhãn hiệu SANTINO loại áo nỉ dài tay, màu trắng xám, hai bên ngực phía trước áo có màu đen; 01 chiếc quần nỉ màu trắng xám nhãn hiệu SANTINO; 01 đôi giầy thể thao nhãn hiệu FASHION DESIGN phần đế giầy màu trắng, phần bên trên màu xám.

Đối với chiếc áo, ví da và các giấy tờ trong ví không thu hồi được người bị hại anh LVP không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường, cần chấp nhận.

Đối với chiếc xe máy LVK và NNC chở nhau sau khi chiếm đoạt tài sản, LVK khai mượn của Lò Văn Hưng ở Chiềng Lao, ML khi mượn không nói dùng xe để phạm tội, sau đó đã trả cho Lò Văn Hưng. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không tìm được người tên Lò Văn Hưng, nên không có căn cứ xem xét giải quyết.

Đối với khoản tiền bồi thường LVK đã bồi thường trả cho người bị hại 6.300.000, đồng. LVK không yêu cầu NNC hoàn trả lại theo phần, cần chấp nhận.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo NNC phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo NNC 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày ngày tạm giữ, tạm giam ngày 08/3/2021.

Không áp dụng hình phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; khoản 1, 2, 5 Điều 65; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo LVK phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo LVK 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án ngày 12/5/2021.

Giao bị cáo LVK cho Ủy ban nhân dân thị trấn IO, huyện ML, tỉnh SL giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình LVK có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục LVK.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật thi hành án hình sự năm 2019, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

3. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các Điều 584, Điều 585, Điều 589 của Bộ luật Dân sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc bị cáo LVK và anh LVP đã thỏa thuận bồi thường là 6.300.000, đồng đã nhận đủ và anh LVP không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Trả lại cho người bị hại anh LVP: 01 chiếc thẻ ATM của Ngân hàng Agribank số 9704050864732561 mang tên LO VAN PHAP.

Trả lại cho NNC: 01 chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ nhãn hiệu Nón Sơn; 01 chiếc áo dài tay màu xanh xám nhạt, loại áo của công nhân điện lực, phía trước áo có chữ LO VAN THANH.

Trả lại cho LVK: 01 chiếc áo nhãn hiệu SANTINO loại áo nỉ dài tay, màu trắng xám, hai bên ngực phía trước có màu đen; 01 chiếc quần nỉ màu trắng nhãn hiệu SANTINO; 01 đôi giầy thể thao nhãn hiệu FASHION DESIGN phần đế giầy màu trắng, phần bên trên màu xám.

Tịch thu tiêu hủy:

01 giấy ghi VAN TIN SO DU TAI KHOAN của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Buộc NNC và LVK mỗi người phải chịu 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 12/5/2021. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:58/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về