Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 30/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30/9/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình. Mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 101/2021/TLST- HNGĐ ngµy 28/4/2021 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 18/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 34/2021/QĐST ngày 01/9/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Ngọc G, sinh năm 1992. Địa chỉ: C, Hạnh Đ, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Lương Ngọc Q, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn Y, xã P, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.

(Chị G có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Q vắng mặt tại phiên tòa không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 28/4/2021 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện N, nguyên đơn chị Bùi Thị Ngọc G trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị Bùi Thị Ngọc G và anh Lương Ngọc Q có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện vào ngày 24/10/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống cùng nhà với bố mẹ chồng tại thôn Y, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là trước khi kết hôn chưa tìm hiểu kỹ về nhau, quá trình sống chung bất đồng quan điểm sống, anh Q không chăm lo cho gia đình, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, hơn nữa anh Q hay chơi cờ bạc gia đình luôn phải lo trả nợ cho anh Q. Đến tháng 12/2020 chị G nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự sâu sắc nên đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị G đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lương Ngọc Q.

2. Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Lương Gia K, sinh ngày 19/01/2018. Hiện nay cháu đang ở với chị G. Nếu được ly hôn chị G có nguyện vọng tiếp tục nuôi con chung, và không đề nghị anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị G xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Lương Ngọc Q đã được tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng để anh Q biết để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, nhưng anh Q không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình để hòa giải vụ án.

Tại biên bản xác minh ngày 02/6/2021 UBND xã P xác nhận thông tin về mối quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản và công nợ chung của vợ chồng đúng như chị Bùi Thị Ngọc G trình bày.

Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa:

* Về thủ tục tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện và chấp hành quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành các quy định trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 5; Điều 147; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử ly hôn giữa chị Bùi Thị Ngọc G và anh Lương Ngọc Q.

- Về con chung: Giao cháu Lương Gia K sinh ngày 19/01/2018 cho chị G tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị G.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị G phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Chị G đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thôn Y, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình, Tòa án nhân dân huyện N đã căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết là đúng quy định. Việc bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, vì bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, phiên tòa đã được hoãn lần thứ nhất do bị đơn vắng mặt, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Ngọc G và anh Lương Ngọc Q tự nguyện đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 24/10/2017. Do vậy hôn nhân giữa chị G và anh Q được công nhận là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống vợ chồng chị G, anh Q hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn tới mâu thuẫn là vợ chồng không hợp nhau về tính cách, hay cãi nhau, bản thân anh Q hay cờ bạc không chăm lo cho gia đình, từ tháng 12 năm 2020 đến nay vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm tới ai nữa. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị G và anh Q mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã được tòa án tống đạt thông báo hòa giải nhưng anh Q không đến tòa án làm việc hòa giải, chứng tỏ anh Q không có thiện chí hòa giải để đoàn tụ vợ chồng.

Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Thị Ngọc G là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[3]. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Vợ chồng chị G và anh Q có 01 con chung là cháu Lương Gia K, sinh ngày 19/01/2018. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay cháu K đang ở với chị G. Chị G có nguyện vọng tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy chị G là người trực tiếp chăm sóc giáo dục cháu K kể từ khi vợ chồng sống ly thân, để bảo đảm sự ổn định về sinh sống của cháu K và xét nguyện vọng của chị G là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị G, tiếp tục giao cháu K cho chị G chăm sóc cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị G không đề nghị, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị G và anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị G phải nộp theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 5; Điều 147; Điều 227, Điều 228 ; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Ngọc G. Chị Bùi Thị Ngọc G được ly hôn anh Lương Ngọc Q.

2. Về con chung: Giao cháu Lương Gia K, sinh ngày 19/01/2018, cho chị G tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Bùi Thị Ngọc G phải nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị G đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0003328 ngày 28/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Bùi Thị Ngọc G, anh Lương Ngọc Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 30/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về