Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường xét xử trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 31/2021/TLST-HNGĐ ngày 18/01/2021, về việc: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/4/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 44/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04/5/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị T; Địa chỉ: phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

Bị đơn: Ông Mai Xuân D; Địa chỉ: phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày có nội dung như sau:

Bà Phạm Thị T và ông Mai Xuân D tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 11/7/2002.

Quá trình sống chung vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống vợ chồng không có tiếng nói chung trong cuộc sống, ông D lười lao động, thường xuyên uống rượu về rồi đánh đập bà T. Nay bà T xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông Mai Xuân D.

Về con chung: Bà T và ông D có 03 con chung là cháu Mai Tuấn K, sinh ngày 10/10/2009, Mai Thiên A, sinh ngày 13/3/2015 và Mai Triệu V, sinh năm 1996. Hiện các con chung đang sống cùng với bà T và bà T có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung là cháu K và cháu A đến tuổi thành niên. Cháu Mai Triệu V đã đủ 18 tuổi nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Mai Xuân D:

Trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình lẫn tránh vắng mặt không tham gia tố tụng nên Tòa án không tiến hành ghi lời khai, công khai chứng cứ và hòa giải được.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm, ý kiến của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa HĐXX cũng như nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T xin ly hôn ông Mai Xuân D.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị T được ly hôn với ông Mai Xuân D.

Về con chung: Giao cháu Mai Tuấn K, sinh ngày 10/10/2009 và Mai Thiên A, sinh ngày 13/3/2015 cho bà Phạm Thị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên.

Cháu Mai Triệu V đã đủ 18 tuổi nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Mai Xuân D được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết. Về án phí: Nguyên đơn bà T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn ông Mai Xuân D có đăng ký hộ khẩu thường trú trên địa bàn thành phố B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông D vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông D là phù hợp khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông D lấy nhau trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường K, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 11/7/2002, là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống thì vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống vợ chồng không có tiếng nói chung trong cuộc sống, ông Dung lười lao động, thường xuyên uống rượu về rồi đánh đập bà T. Nay bà T xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông Mai Xuân D.

Tại biên bản xác minh của Tòa án chính quyền địa phương cho biết bà T và ông D là vợ chồng, sau khi kết hôn về cư trú và sinh sống tại phường K, thành phố B, trong cuộc sống vợ chồng giữa bà T và ông D có xảy mâu thuẫn nên ông D bỏ về sống cư trú tại phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk sinh sống. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông D vắng mặt không tham gia tố tụng, cố tình lẫn tránh, nên tình cảm vợ chồng và mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng không hòa giải đoàn tụ được.

Xét mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông D đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân thì không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về con chung: Hiện nay bà T đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung các con chung, bà T có công việc và có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng con chung nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung và để ổn định cuộc sống của con chung cần giao cháu Mai Tuấn K, sinh ngày 10/10/2009, Mai Thiên A, sinh ngày 13/3/2015 cho bà T tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

Cháu Mai Triệu V đã đủ 18 tuổi nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông D có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Việc cấp dưỡng nuôi con chung Bà T không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

[6]. Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, khoản 2 Điều 227, Điều 228; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị T xin ly hôn ông Mai Xuân D.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị T được ly hôn ông Mai Xuân D.

Về con chung: Giao cháu cháu Mai Tuấn K, sinh ngày 10/10/2009, Mai Thiên A, sinh ngày 13/3/2015 cho bà T tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Cháu Mai Triệu V đã đủ 18 tuổi nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông D được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu số AA/2019/0013709 ngày 14/01/2021.

Nguyên đơn có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niếm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thị hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về