Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 13 tháng 5 năm 20 21 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 598/2020/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 12 năm 20 20 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 09 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2021/ĐXXST- HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn N, sinh năm 1994; Địa chỉ: Ấp X, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. – Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm B1, sinh năm 1993; Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Vĩnh Long. – Vắng mặt không lý do sau:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 08/12/2020 nguyên đơn chị N trình bày như Về hôn nhân: Chị N và anh B1 kết hôn vào năm 2018, hôn nhân do quen biết, hai bên tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện T, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian vợ chồng sống hạnh phúc với nhau được hơn 01 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đến tháng 05 năm 2020 thì vợ chồng ly thân cho đến nay không hàn gắng được.

Về con chung: Chị N trình bày có một con chung tên Phạm H, sinh ngày 10/10/2019, hiện nay cháu đang sống với chị N.

Về tài sản chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị N trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nguyên nhân mâu thuẫn theo chị N trình bày là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng ý kiến và thường xuyên cự cải, cuộc sống gặp phải áp lực nặng nề, tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt. Hiện nay chị N xác định tình cảm vợ chồng dành cho anh B1 không còn nữa.

Tại phiên toà hôm nay chị Nên có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt do chị N phải đi làm ăn xa việc đi lại gặp khó khăn vì tình hình dịch bệnh Covid 19. Tuy nhiên, chị N giữ yêu cầu ly hôn với anh B1. Về con chung chị N yêu cầu được nuôi con là Phạm H, sinh ngày 10/10/2019 không yêu cầu anh B1 cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay anh B1 vắng mặt không lý do.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt không lý do, nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long tiến hành thụ lý vụ án và giải quyết vụ án theo thủ tục thông thường, đúng trình tự thủ tục quy định tại các Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Vụ án không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự nên Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp không tham gia.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự trong vụ án: Nguyên đơn chị N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt do chị N phải đi làm ăn xa việc đi lại gặp khó khăn vì tình hình dịch bệnh Covid 19. Phía bị đơn anh B1 đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như thông báo ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đúng theo quy định nhưng anh B1 vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Vì vậy, căn cứ theo Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên toà hôm nay chị N có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng nhưng vẫn giữ yêu cầu ly hôn với anh B1. Về con chung chị N yêu cầu được nuôi con là Phạm H, sinh ngày 10/10/2019 không yêu cầu anh B1 cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh B1 vắng mặt không lý do, không có văn bản ý kiến phản bác hoặc yêu cầu gì khác đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án.

[2.1] Xét về hôn nhân: Chị N và anh B1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện T, tỉnh Vĩnh Long vào năm 2019 đây là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn chị N và anh B1 sống chung hạnh phúc được hơn 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm sống, anh B1 ham chơi không chăm lo kinh tế gia đình, không quan tâm vợ con, chị N đã cố gắng vun vén tình cảm gia đình, khuyên can anh Bình thay đổi để cùng chăm lo cho gia đình nhưng không thành. Đến tháng 5/2020 vợ chồng ly thân nhau cho đến nay, trong khoảng thời gian ly thân chị N và anh B1 không liên lạc, không quan tâm nhau. Quá trình giải quyết vụ án chị N xác định do thời gian ly thân kéo dài, tình cảm vợ chồng dành cho anh B1 đã phai nhạt nên vẫn giữ yêu cầu ly hôn đối với anh B1.

Anh Phạm B1 đã được Tòa án nhiều lần tống đạt thông báo về yêu cầu khởi kiện của chị N và ngày mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng vẫn nhiều lần vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện việc xem thường pháp luật của anh B1, đã biết việc chị N khởi kiên ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện T nhưng vẫn không đến, mặc nhiên bỏ trôi vụ việc để Tòa án giải quyết vắng mặt. Qua đó, xem như anh B1 đã tự mình từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời vi phạm nghĩa vụ mà pháp luật quy định tại Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Từ những cơ sở trên đã cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh B1 đã đến mức trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xét chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh B1.

[2.2] Xét về con chung: Chị N và anh B1 có 01 người con là Phạm H, sinh ngày 10/10/2019. Chị N yêu cầu tiếp tục nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng.

Trong quá trình giải quyết Tòa án đã tống đạt cho anh B1 biết yêu cầu nuôi con của chị N nhưng anh B1 vẫn vắng mặt không lý do, đồng thời không có ý kiến phản bác hay yêu cầu gì khác đối với chị N trong vấn đề này.

[-] Xét yêu cầu nuôi con của chị N: Xét thấy bé Phạm H, sinh ngày 10/10/2019 đến nay chưa được 36 tháng tuổi. Từ khi chị N và anh B1 ly thân với nhau thì bé H do chị N chăm sóc nuôi dưỡng. Xét thấy bé H trong độ tuổi từ 01 đến 03 tuổi đang trong giai đoạn phát triển tâm lý trẻ ấu nhi đến tâm lý trẻ em cùng với sự phát triển của ngôn ngữ nên cần có sự chăm sóc chu đáo của người mẹ ở kế bên để giúp trẻ phát triển theo hướng tích cực tốt nhất. Do đó, vì quyền lợi mọi mặt của trẻ cũng như là phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị N, tiếp tục giao bé Phạm H, sinh ngày 10/10/2019 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng.

[-] Về cấp dưỡng nuôi con: Theo đơn khởi kiện chị N không yêu cầu anh B1 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

Anh B1 không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

[2.3] Xét về tài sản chung và nợ chung: Do anh B1 vắng mặt, chị N không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đương sự phải chịu án phí như sau:

Chị Nguyễn N phải nộp số tiền 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được chấp nhận được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0010736 ngày 11 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn N.

1.1 Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn N được ly hôn với anh Phạm B1.

1.2 Về con chung: Giao cháu Phạm H, sinh ngày 10/10/2019 cho chị N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Theo đơn khởi kiện chị N không yêu cầu anh B1 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

Anh B1 không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

1.3 Về tài sản chung và nợ chung: Do anh B1 vắng mặt, chị N không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải nộp số tiền 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được chấp nhận được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0010736 ngày 11 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

3/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4/ Về quyền kháng cáo: Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được giao hoặc được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn 

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về