Bản án 58/2020/HS-ST ngày 28/10/2020 về tội đánh bạc

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 58/2020/HS-ST NGÀY 28/10/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2020/TLST- HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Phước R, sinh năm 1988, tại: Quảng nam; HKTT: Tổ 14, thôn ĐL, xã QM, huyện QQS, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Phước M và bà Trần Thị Ph; có vợ và một người con; tiền án, tiền sự: (không); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/3/2020 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Ngô Xuân Tr, sinh năm 1985, tại: Bình Phước; HKTT: Thôn BT, xã PM, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; con ông Ngô Xuân T và bà Võ Thị Th; có vợ và hai người con; tiền án, tiền sự: (không); nhân thân: Ngày 12/11/2018, bị Công an huyện Bù Gia Mập xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc; bị bắt tạm giữ ngày 03/3/2020, tạm giam ngày 12/3/2020, thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho bảo lĩnh ngày 12/6/2020; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Quang TG, sinh năm 1991; trú tại: Thôn BT, xã K, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (có mặt).

Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1967; trú tại: Thôn BT, xã K, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

2. Chị Bùi Thị Thanh H, sinh năm 1992; trú tại: Thôn BT, xã K, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

3. Ông Ngô Xuân TA, sinh năm 1977; trú tại: Thôn BT, xã K, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

4. Chị Nguyễn Thị Lệ Y, sinh năm 1986; trú tại: Khu phố 4, thị trấn C, huyện CT, tỉnh Bình Phước; (có mặt).

5. Ông Trần Đức PA, sinh năm 1955; trú tại: Thôn 2, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

6. Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1986; trú tại: Thôn 4, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

7. Bà Lê Thị PN, sinh năm 1977; trú tại: Tổ 3, ấp TS, thị trấn TB, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

8. Ông Võ Văn LA, sinh năm 1977; trú tại: Ấp TS, thị trấn TB, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/01/2020, Nguyễn Phước R thuê xe ô tô FORTUNER, biển kiểm soát 51A - 765.88 của Công ty TNHH dịch vụ Tuấn Ánh ở Khu phố 8, phường Bình Hòa, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, chở Nguyễn Thị Lệ Y về nhà ở Khu phố 4, thị trấn Chơn Thành, tỉnh Bình Phước để chơi tết nguyên đán năm 2020. Đến ngày 25/01/2020, R gọi điện thoại cho bạn quen trước đó tên U (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi nhà để R đến chúc tết. R điều khiển xe ô tô chở Y đến nhà U ở huyện Bù Đốp, khi đến Bù Đốp, R gọi điện thoại cho U hỏi địa chỉ thì U cho một đối tượng nữ giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) điều khiển xe mô tô đón dẫn R đến sòng bạc ở nhà Nguyễn Văn L (thôn BT, xã K, huyện Bù Gia Mập). Tại đây, R thấy Ngô Xuân Tr cầm cái và trực tiếp đánh bạc với Mai Xuân TA, Trần Đức PA, H và khoảng 20 đối tượng khác, R cùng vào tham gia đánh bạc. Đến khoảng 16 giờ 30 phút thì Tr nghỉ đánh bạc, R chở Y và U đi ăn cơm, sau đó R chở Y và U quay lại sòng bạc để R tiếp tục đánh bạc. Khoảng 17 giờ Tr cũng quay lại sòng bạc tiếp tục cầm cái trực tiếp đánh với R và khoảng 20 đối tượng khác, đặt tiền cược từ 50.000 đồng đến 3.000.000 đồng. R đánh bạc đến 21 giờ cùng ngày thì thua hết tiền, tuy nhiên R vẫn tiếp tục mở chén bạc và thua khoảng 30.000.000 đồng, lúc này các đối tượng đánh bạc yêu cầu R trả số tiền đánh bạc đã thua. Thấy vậy, A gọi điện thoại cho Nguyễn Văn L về đưa 30.000.000 đồng cho A mượn để đưa cho R trả cho các đối tượng thắng trong ván bài này và A sẽ cầm xe ô tô FORTUNER 51A - 765.88 của R. Sau khi L đưa 30.000.000 đồng cho A mượn, A đưa cho R trả cho các đối tượng hết 29.000.000 đồng, còn 1.000.000 đồng R đưa cho Y giữ. Do để quên ví trên xe ô tô nên R đi đến lấy ví thì A phát hiện không phải xe của R mà do R thuê xe của người khác; A và O đánh R và Y vì cho rằng đã lừa dối A, đồng thời ép R gọi điện về nhà đem tiền vào trả cho A; R gọi điện thoại cho cha là ông Nguyễn Phước M ở QM, QS, Quảng Nam nói do đánh bạc thua, nên đã cầm xe ô tô và nói ông M đem tiền vào trả cho A.

Hình thức đánh bạc bằng xóc đĩa cụ thể: Người cầm cái bỏ 04 quân vị hình tròn có hai mặt trắng - đen khác nhau vào một cái đĩa, lấy một cái bát (chén) úp lên rồi xóc, sau đó để xuống chiếu bạc; các con bạc đặt tiền cược theo hai bên (bên chẵn và bên lẻ), người làm cái mở chén nếu là chẵn thì người đặt bên chẵn thắng và ngược lại, số tiền thắng thua tương ứng với số tiền đã đặt cược. Chẵn là có 02 hoặc 04 quân vị cùng màu, lẻ là có 03 quân vị cùng màu, quân còn lại khác màu.

Ngày 03/3/2020, Nguyễn Phước R và Ngô Xuân Tr ra đầu thú.

Vật chứng trong vụ án:

Thu giữ 3.000.000 đồng do Ngô Xuân Tr và Nguyễn Thị Lệ Y giao nộp; 01 tấm bạt cũ đã qua sử dụng, kích thước rộng 1,8m, dài 3,8m, màu xanh - cam; 01 chén (bát) màu trắng miệng chén bị mẻ do Nguyễn Quang TG giao nộp; 01 xe ô tô FORTUNER, biển kiểm soát 51A - 765.88, số khung: 69G3E4018414, số máy: 2KDU479599.

Ngày 12/3/2020, Nguyễn Phước R và Ngô Xuân Tr bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Gia Mập khởi tố bị can để điều tra.

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKSBGM ngày 19/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập truy tố các bị cáo Nguyễn Phước R và Ngô Xuân Tr về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 38; Điều 50; Điều 58; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Phước R từ 09 đến 12 tháng tù và Ngô Xuân Tr từ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung đối với bị cáo Tr từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tấm bạt cũ đã qua sử dụng, kích thước rộng 1,8m, dài 3,8m, màu xanh - cam; 01 chén (bát) màu trắng miệng chén bị mẻ; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 3.000.000 đồng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng có ý kiến như sau:

- Các bị cáo Nguyễn Phước R và Ngô Xuân Tr đều đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Quang TG khai: Sáng 25/01/2020, nhà anh TG có làm cơm cúng, sau khi cúng xong thì ông L, vợ chồng anh TG đi chúc tết đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì về nhà, khi về nhà thì thấy đông người đang tụ tập đánh bạc. Sau khi ăn cơm xong thì vợ chồng anh TG lại tiếp tục đi chúc tết đến 20 giờ cùng ngày thì về nhà vẫn thấy các con bạc vẫn đang đánh bạc, anh TG không xác định được ai tham gia đánh bạc vì đông người. Tấm bạt của anh Trọng dùng để phơi tiêu, còn chén thì ở hàng rào nhà anh TG dùng để múc đất, anh không yêu cầu nhận lại bạt và chén; anh TG xác định khi anh đi chúc tết thi ông L đã không ở nhà.

- Người làm chứng ông Nguyễn Văn L khai (bút lục 115 - 130): Sáng ngày 25/01/2020, có người đến nhà ông L chúc tết, đến khỏa 10 giờ thi có khoảng 15 người đến nhà ông L để đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, ông Long không tham gia đánh bạc, 11 giờ ông L đi chúc tết. Đến 21 giờ thì đối tượng Nguyễn Trường A gọi điện cho ông L mượn 30.000.000 đồng để cho R chung tiền đánh bạc do hết tiền. Ông L không biết người thua bạc và cầm xe cho A tên gì.

- Người làm chứng chị Bùi Thị Thanh H khai (bút lục 150 - 152): Sáng 25/01/2020, chị H cùng chồng là anh TG đi chúc tết đến 11 giờ trưa về nhà thì thấy đông người tụ tập nhưng biết làm gì. Sau khi ăn cơm xong thì chị và anh TG tiếp tục đi chúc tết, khi đi thì mọi người vẫn đang tụ tập rất đông; ông L làm cơm cúng xong thì cũng đi chúc tết đến tối mới về; nhà chị có 01 tấm bạt để phơi tiêu.

- Người làm chứng ông Ngô Xuân TA khai (bút lục 196 - 200): Sáng 25/01/2020, anh TA có đến nhà ông L chúc tết, khi đến đã thấy có khoảng 10 người đang ngồi đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, khoảng 15 phút sau thì anh TA ra về. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, anh TA quay lại nhà ông L thấy có khoảng 30 người đang đánh bạc, anh TA chỉ ngồi xem, không tham gia đánh bạc, không biết ai là người mở sòng bạc, trong thời gian anh TA ở nhà ông L không thấy có ai thu tiền xâu.

- Người làm chứng chị Nguyễn Thị Lệ Y khai: Ngày 23/01/2020, R thuê xe ô tô chở Y từ Thành phố Hồ Chí Minh đến huyện CT, tỉnh Bình Phước ăn tết cùng gia đình. Sáng ngày 25/01/2020, R lái xe chở Y đến huyện Bù Đốp thì có một người phụ nữ không rõ nhân thân lai lịch dẫn qua xã K, huyện Bù Gia Mập, R tham gia đánh bạc, Y ở ngoài xe không tham gia đánh bạc; đến khoảng 14 giờ, R chở Y và U đi ăn, sau đó R quay lại tiếp tục đánh bạc; khoảng 21 giờ Y vào gọi R về thì R đã thua hết tiền và đã cầm xe ô tô. Sau khi chung ván cuối R đưa cho Y 1.000.000 đồng, số tiền này Y đã giao nộp cho cơ quan Công an.

- Người làm chứng ông Trần Đức PA khai (bút lục 172 - 180): 10 giờ ngày 25/01/2020, Ông PA đến nhà ông L chúc tết, khoảng 30 phút sau thi ông L đi nên ông PA ra về, khi về ông PA thấy có người tụ tập đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, ông PA tham gia đánh bạc và thua hết 800.000 đồng nên không đánh nữa mà về nhà; khi đánh bạc thì ông PA thấy Tr cầm cái, còn những người tham gia đánh bạc khác thì ông PA không để ý, không biết.

- Người làm chứng anh Nguyễn Văn S khai (bút lục 204 - 206): 19 giờ ngày 25/01/2020, anh S đến nhà ông L chúc tết thì thấy có 15 người đang tụ tập đánh bạc, Tr là người cầm cái xóc đĩa. Đến 21 giờ một người mở chén bạc khi Tr cầm cái nhưng không có tiền chung, các con bạc yêu cầu chung tiền, người thanh niên thua bạc cầm xe ô tô cho Sửu lấy thêm 50 triệu đồng nhưng Sửu không có tiền, khoảng 10 phút sau ông L về thì sự việc được giải quyết; anh S không tham gia đánh bạc, chỉ ngồi xem.

- Người làm chứng bà Lê Thị PN khai (bút lục 207 - 211): 13 giờ chiều ngày 25/01/2020, bà PN đến đón R tại vòng xoay Bù Đốp đến xã K , huyện Bù Gia Mập thì được U chỉ đường vào một căn nhà xây ở lô cao su, đến nơi U dẫn R vào đánh bạc, bà PN vào ghế đá ngồi chơi đến 15 giờ thì về nhà ở Bù Đốp. Đến 18 giờ thì R, U và bạn gái R rủ đi ăn rồi quay lại sòng bạc; khi quay lại sòng bạc thì thấy sòng bạc vẫn đang hoạt động, Tr là người cầm cái xóc đĩa, U, R vào tham gia đánh bạc, 30 phút sau thì U rủ bà PN vào ngồi xem, R cầm cái và U phụ R chung tiền nhưng sau đó các con bạc không cho R cầm cái; Tr tiếp tục cầm cái, R thua bạc mượn tiền Sửu nhưng Sửu không có tiền, khoảng 10 phút sau một người đàn ông về sự việc được giải quyết. Bà PN chi quen biết U, khi đến sòng bạc bà PN không tham gia đánh bạc chỉ ở ngoài xem, bạn gái của R ở ngoài đường không tham gia đánh bạc; bà PN không biết ai là người tổ chức đánh bạc, thu tiền xâu.

- Người làm chứng ông Võ Văn LA khai (bút lục 212- 215): Sáng 25/01/2020, Ông LA theo người khác đến nhà ông L thì thấy có nhiều người đang đánh bạc, ông LA theo người đi xuống lô xem đá gà nhưng không thấy ai đá, sau đó thì về nhà, không để ý ai đánh bạc. 13 giờ nghe bà PN (vợ ông LA) nói U nhờ dẫn R vào sòng bạc; 19 giờ ông LA gọi điện thoại và sang nhà ông L gọi bà PN về thì thấy có người vẫn đang tụ tập đánh bạc, Trinh là người cầm cái, ông LA nghe nói R cầm xe ô tô, ván cuối R đặt cược 30 triệu đồng và thua, R vay tiền Sửu nhưng Sửu không có, khoảng 5 đến 10 phút sau ông L về giải quyết thì các con bạc tiếp tục đánh còn Ry đi về; ông L không biết ai tổ chức và những người tham gia đánh bạc.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về áp dụng Bộ luật Hình sự để xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14. Các hành vi phạm tội thực hiện từ ngày 01/01/2018 trở đi thì áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để giải quyết.

[3] Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo cơ bản phù hợp với nhau với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo Nguyễn Phước R và Ngô Xuân Trh tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa sát phạt nhau bằng tiền vào ngày 25/01/2020 với nhiều đối tượng khác tại nhà Nguyễn Văn L ở thôn BT, xã K, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước. Tổng số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 32.000.000 đồng.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ cá nhân, mục đích đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Viện kiểm sát truy tố và luận tội các bị cáo theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đứng pháp luật.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo cùng nhau đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền; bị cáo Nguyễn Phước R chưa có tiền án, tiền sự nhưng tham gia đánh bạc số tiền 30.000.000 đồng; Nhân thân của bị cáo Ngô Xuân Tr bị xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi của từng bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng trật tự công cộng và phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: “Thành khẩn khai báo”, “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Đầu thú”; bị cáo R “Ăn năn hối cải”; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được xem xét khi lượng hình quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Xét bị cáo Tr chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, nên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và phạt bổ sung cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo; áp dụng hình phạt tù cách ly khỏi xã hội đối với bị cáo R. Xét bị cáo Tr có thu nhập không ổn định, nên miễn khấu trừ thu nhập.

[8] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với các bị cáo là phù hợp và đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về vật chứng: 01 tấm bạt cũ đã qua sử dụng, kích thước rộng 1,8m, dài 3,8m, màu xanh - cam; 01 chén (bát) màu trắng miệng chén bị mẻ là dụng cụ các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc xét không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy; 3.000.000 đồng là số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc nên sung quỹ Nhà nước; 01 xe ô tô FORTUNER, biển kiểm soát 51A - 765.88, số khung: 69G3E4018414, số máy: 2KDU479599 Cơ quan điều tra đã chuyển cho Công an quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh để điều tra xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xem xét,

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phước R và Ngô Xuân Tr phạm tội “Đánh bạc”.

1.1. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Phước R 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/3/2020.

1.2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 36; Điều 50; Điều 58; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Xuân Tr 02 (Hai) năm cải tạo không giam giữ, được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam đã được quy đổi là 09 (Chín) tháng 27 (Hai mươi bảy) ngày, còn phải chấp hành 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng 03 (Ba) ngày, thời hạn tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Phước Minh, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục.

Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), nộp ngân sách Nhà nước.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

- Tịch thu tiêu hủy 01 tấm bạt cũ đã qua sử dụng, kích thước rộng 1,8m, dài 3,8m, màu xanh - cam; 01 chén (bát) màu trắng miệng chén bị mẻ;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo R và Tr mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (28/10/2020).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HS-ST ngày 28/10/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:58/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về