Bản án 58/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 58/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2020/TLST-HS ngày 10/8/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2020/QĐXXST-HS ngày 04/9/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2020/HSST-QĐ ngày 16/9/2020 đối với bị cáo:

HÀ VĂN L, sinh ngày 17/4/1988 tại huyện N, tỉnh T;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã P, huyện C, tỉnh T; quốc tịch: Việt Nam; dân Tộc: Tày; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Hà Văn T và con bà Quan Thị V; vợ Vũ Thị S; có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Vũ Thị S, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn Đ, xã P, huyện C, tỉnh T, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 30 phút ngày 27/5/2020, Hà Văn L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22F1 - 059.74 đi thôn B, xã P, huyện C mục đích là tìm mua lợn, khi đến thôn B, xã P, huyện C, L gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ trên tay đang sách hai bao tải bằng nhựa, L hỏi người đàn ông này trong bao đựng gì thì được người đàn ông này cho biết là hai con rắn, thấy vậy L hỏi tiếp “rắn gì đấy” thì người đàn ông đó nói “một con chúa, một con phì”. Do trước đó có một người đàn ông hỏi L mua rắn hổ mang chúa qua mạng xã hội Facebook, nên L nẩy sinh ý định mua về bán kiếm lời, sau đó L sử dụng điện thoại truy cập mạng xã hội Facebook và gọi đến tài khoản mạng xã hội của người đàn ông đó, qua trao đổi, L thỏa thuận bán cho người đàn ông này hai con rắn trên với giá 400.000 đồng/01kg và hẹn nhau khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày L mang rắn đến cầu N, xã T có người đi xe Wave đỏ đến đón” sau khi trao đổi xong L hỏi mua 02 con rắn với người đàn ông sách bao tải đựng rắn với giá chung là 300.000 đồng/01kg, L và người đàn ông bán rắn cùng nhau cân và biết con rắn hổ mang chúa nặng 01kg, con hổ mang phì nặng 1,7kg với tổng số tiền là 810.000 đồng. Sau khi mua rắn xong L chở hai con rắn về nhà rồi vận chuyển hai cá thể rắn bán cho người đàn ông hỏi L trên mạng xã hội, khi L đến km 20+100 đường DT 188 thuộc thôn Bản L, xã P, huyện C thì bị Công an huyện C, tỉnh T phát hiện và tạm giữ toàn bộ tang vật.

Ti kết luận giám định số 352/STTNSV ngày 28/5/2020 của Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật kết luận: 01 cá thể động vật còn sống là loại Rắn hổ chúa có tên khoa học là Ophiophagus hannah, 01 cá thể động vật còn sống là loại Rắn Hổ mang Trung Quốc có tên khoa học là Naja atra.

Ti kết luận định giá tài sản số: 38/KL-HĐĐGTS ngày 28/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chiêm Hóa kết luận: 01 cá thể động vật còn sống là Rắn Hổ mang Trung Quốc có tên khoa học là Naja atra có trọng lượng là 1,7kg có giá là 340.000 đồng.

o trạng số: 48/CT-VKSCH ngày 07/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Hà Văn L để xét xử về tội: “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Hà Văn L phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” .

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 244; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hà Văn L từ 15 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo. Ấn định thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Về hình phạt bổ sung phạt tiền: Bị cáo là cá nhân thuộc hộ cận nghèo, là dân tộc thiểu số cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 bao tải nhựa đều có kích thước 32 x 65cm; 01 đoạn ống nhựa hình trụ tròn, màu đen, dài 27cm, đường kính 02cm; 01 đoạn ống nhựa hình trụ tròn, màu đen, dài 25.5cm, đường kính 02cm do không còn giá trị sử dụng.

Đi với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22F1- 059.74 mang tên Hà Văn L, quá trình điều tra xác định là tài sản chung của bị cáo Hà Văn L và vợ là Vũ Thị S; chị S không biết bị cáo sử dụng xe mô tô vào mục đích phạm tội. Do đó, đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị của chiếc xe mô tô đã thu giữ của Hà Văn L; trả lại ½ giá trị của chiếc xe mô tô cho chị Vũ Thị S.

Đi với hai cá thể Rắn, ngày 03/6/2020 Hạt Kiểm lâm huyện C, trỉnh T đã thả về môi trường tự nhiên nên không đề nghị xem xét.

Đi với người đàn ông bán hai cá thể Rắn cho Hà Văn L Cơ quan điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để giải quyết.

Đối với hành vi vận chuyển, buôn bán 01 cá thể động vật còn sống là loại Rắn Hổ mang Trung Quốc của Hà Văn L chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện C, tỉnh T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, nên không đề nghị xem xét.

Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án của người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa bị cáo Hà Văn L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi buôn bán trái phép 01 cá thể Rắn hổ chúa và 01 cá thể Rắn Hổ mang Trung Quốc, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị S xác định chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22F1- 059.74 mang tên Hà Văn L là tài sản chung của chị và bị cáo L. Chị không biết L sử dụng chiếc xe để vận chuyển, buôn bán trái phép 01 cá thể Rắn hổ chúa và 01 cá thể Rắn Hổ mang Trung Quốc. Chị S đề nghị được trả lại tài sản xe máy để sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 27/5/2020, tại thôn Bản L, xã P, huyện C, tỉnh T, Hà Văn L đã có hành vi buôn bán trái phép 01 cá thể Rắn còn sống có trọng lượng 01kg. Theo kết luận giám định là loài Rắn hổ chúa có tên khoa học là Ophiophagus hannah thuộc phụ lục I (Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ) ban hành kèm theo Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ. Bị cáo Hà Văn L chưa kịp bán thì bị Công an huyện C, tỉnh T phát hiện và tạm giữ toàn bộ tang vật. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Hà Văn L về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo điểm b khoản 1 Điều 244 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc buôn bán trái phép động vật nguy cấp, quý, hiếm là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sự bền vững và ổn định của môi trường tự nhiên, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về việc bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; gây thiệt hại cho môi trường sinh thái, mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử trước pháp luật là cần thiết, nhằm mục đích răn đe đối với các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn.

Trưc khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”,“Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “Là dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn và bị cáo L có đơn trình bày hoàn cảnh khó khăn, gia đình thuộc diện hộ cận nghèo, là lao động chính trong gia đình đề nghị xem xét, giảm nhẹ hình phạt và xin được cải tạo tại địa phương, có xác nhận của chính quyền địa phương”. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Hà Văn L phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì không ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo L ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền nơi cư trú cũng đủ sức giáo dục, cải tạo đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án:

Đi với 02 bao tải nhựa đều có kích thước 32 x 65cm; 01 đoạn ống nhựa hình trụ tròn, màu đen, dài 27cm, đường kính 02cm; 01 đoạn ống nhựa hình trụ tròn, màu đen, dài 25,5cm, đường kính 02cm xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 cá thể Rắn Hổ chúa và 01 cá thể Rắn Hổ mang Trung Quốc đã thu giữ, ngày 03/6/2020 Hạt Kiểm lâm huyện C, tỉnh T đã thả về môi trường tự nhiên nên không xem xét.

Đi với 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại Dream, biển kiểm soát 22F1- 059.74, đăng ký xe mang tên Hà Văn L, đây là phương tiện bị cáo sử dụng liên quan đến việc phạm tội. Chiếc xe mô tô là tài sản chung của bị cáo L và vợ là Vũ Thị S; chị S không biết bị cáo sử dụng xe mô tô vào mục đích phạm tội, do đó cần trả lại ½ giá trị của chiếc xe mô tô cho chị S, tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị của chiếc xe mô tô đã thu giữ của Hà Văn L.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 4 Điều 244 quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét thấy bị cáo thuộc hộ cận nghèo, là dân tộc thiểu số cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn L.

[6] Vấn đề khác:

Đối với hành vi vận chuyển, buôn bán 01 cá thể động vật còn sống là loại Rắn Hổ mang Trung Quốc của Hà Văn L chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện C, tỉnh T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền nên không xem xét.

Đi với người đàn ông bán 02 cá thể Rắn cho Hà Văn L, Cơ quan điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm b khoản 1 Điều 244; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; các Điều 47, 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Hà Văn L phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.

Xử phạt Hà Văn L, 01 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 02 năm 06 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 24/9/2020. Giao Hà Văn L cho Uỷ ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh T để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo các Điều 68, 92, của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Tch thu tiêu hủy 02 bao tải nhựa đều có kích thước 32 x 65cm; 01 đoạn ống nhựa hình trụ tròn, màu đen, dài 27cm, đường kính 02cm; 01 đoạn ống nhựa hình trụ tròn, màu đen, dài 25,5cm, đường kính 02cm;

Tch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị của chiếc xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại Dream, biển kiểm soát 22F1- 059.74, đăng ký xe mang tên Hà Văn L. Trả lại ½ giá trị của chiếc xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại Dream, biển kiểm soát 22F1- 059.74, đăng ký xe mang tên Hà Văn L cho chị Vũ Thị S.

Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 10 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa.

Hà Văn L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 24/9/2020.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm

Số hiệu:58/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về