Bản án 58/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 58/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 2110/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/3/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trần Trung H, sinh năm 1982

Bị đơn: Chị Lý Hồng N, sinh năm 1982

Cùng trú tại: 103, Đồng Khởi, phường T, TP. B, Đồng Nai.

(Anh H, chị N vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn anh Trần Trung H trình bày:

Anh và chị N tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2008 tại UBND phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Cuộc sống vợ chồng không hòa thuận, bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Vợ chồng sống chung nhà nhưng thực tế ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay tình cảm của anh giành cho chị N không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh xin ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh và chị N có 03 con chung là cháu Trần Minh T, sinh ngày 26/9/2009, Trần Lý Nhã K, sinh ngày 11/7/2013 và Trần Minh T2, sinh ngày 09/12/2014. Anh đồng ý giao 03 con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Mỗi tháng anh cấp dưỡng nuôi con chung 5.000.000đồng/con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh bận việc nên không thể tham gia việc xét xử. Đề nghị Tòa án cho anh vắng mặt.

- Bị đơn chị Lý Hồng N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, về tài sản chung, nợ chung, con chung, nguyên nhân mẫu thuẫn vợ chồng, chị đồng ý với phần trình bày của anh H. Trong cuộc sống vợ chồng không tránh khỏi việc mâu thuẫn do quan điểm sống khác nhau. Mặt khác, từ đầu năm 2018 cho đến nay anh H có quan hệ với người phụ nữ khác nên đã không còn quan tâm, chăm sóc gia đình. Nhưng chị vẫn tha thứ cho anh H mong anh H quay về đoàn tụ và cùng nuôi dạy con chung. Nay anh H xin ly hôn thì chị không đồng ý vì chị muốn các con có một gia đình đầy đủ cả cha mẹ.

Về con chung: Trường hợp Tòa án giải quyết cho anh H được ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung. Về việc cấp dưỡng theo sự tự nguyện của anh H, việc cấp dưỡng này sẽ giao từ ngày 01 đến ngày 10 hàng tháng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Anh H có nợ chị 400.000.000đồng nhưng khoản nợ này hai vợ chồng tự thương lượng.

Do chị bị bệnh nên không thể tham gia việc phiên tòa. Đề nghị Tòa án cho chị vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm: Đảm bảo theo đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết tranh chấp: Cuộc sống hôn nhân giữa anh H và chị N phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh H. Về con chung: Đề nghị giao 03 con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Trần Minh T có nguyện vọng ở với mẹ, anh H cũng đồng ý giao cả 03 con chung cho chị N nuôi dưỡng. Anh H mỗi tháng cấp dưỡng nuôi con chung 5.000.000đồng/tháng/con. Tài sản chung anh anh H và chị N trình bày không có; nợ chung anh H trình bày không có. Chi N cho rằng anh H còn nợ chị số tiền 400.000.000đồng nhưng chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và cấp dưỡng nuôi con theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Trần Trung H khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với chị Lý Hồng N hiện đang trú tại: 103, Đồng Khởi, phường T, TP. B, Đồng Nai. Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho chị N đầy đủ, tuy nhiên chị N có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị N tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2008. Căn cứ vào Điều 9 và Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo xác minh tại địa phương xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh H và chị N có xảy ra hay không thì địa phương không nắm được vì anh H và chị N không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập chị N đến Toà để làm việc, dự phiên họp về Tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để hai anh chị có điều kiện gặp gỡ thỏa thuận, đoàn tụ nhưng chị N không đến. Điều này chứng tỏ anh H và chị N không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa anh H và chị N là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đây là căn cứ để Tòa án cho ly hôn. Vì vậy, cần chấp nhận cho anh H được ly hôn với chị N.

[3] Về con chung: Anh H và chị N có 03 con chung là cháu Trần Minh T, sinh ngày 26/9/2009, Trần Lý Nhã K, sinh ngày 11/7/2013 và Trần Minh T2, sinh ngày 09/12/2014. Chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung, anh H cũng đồng ý giao 03 con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Đồng thời cháu Trần Minh T có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó, giao 03 con chung là Trần Minh T, Trần Lý Nhã K và Trần Minh T2 cho chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Hàng tháng anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 5.000.000đồng/con (15.000.000đồng/tháng/03con).

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Anh H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Chị N khai anh H có nợ của chị 400.000.000đồng nhưng chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Anh Trần Trung H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và cấp dưỡng nuôi con chung.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Điều 9, Điều 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” của nguyên đơn anh Trần Trung H. Anh Trần Trung H được ly hôn với chị Lý Hồng N.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Minh T, sinh ngày 26/9/2009, Trần Lý Nhã K, sinh ngày 11/7/2013 và Trần Minh T2, sinh ngày 09/12/2014 cho chị Lý Hồng N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Anh Trần Trung H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 5.000.000đồng/tháng/con (15.000.000đồng/tháng/03con). Thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu T, cháu K và cháu T2 đủ 18 và có khả năng lao động.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thanh toán các khoản tiền nêu trên thì phải trả tiền lãi cho người được thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Không ai được ngăn cản quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung của anh Trần Trung H.

Khi cần thiết các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên.

Về tài sản chung: Không có, nên không xem xét giải quyết. Về nợ chung: Không đặt ra xem xét.

3. Về án phí: Anh Trần Trung H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn và 300.000đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí mà anh H đã nộp theo pH thu số 0000262 ngày 22/8/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa. Như vậy anh H còn phải nộp tiếp số tiền án phí còn lại là 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

4. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:58/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về