TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 58/2019/HSST NGÀY 27/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (số 1400 đường Đồng Văn cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh) đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2019/HSST ngày 06 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Dư Thế Q, giới tính: Nam; sinh năm: 1992; tại: Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh D; chỗ ở hiện nay: Không nhất định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Không; con ông Dư Văn B, sinh năm: 1965 và bà Mai Thị D, sinh năm 1968; bị cáo là con lớn trong gia đình có 02 anh em; tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 18/01/2019, bị xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 22/2019/HS-PT của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 17/3/2019, Dư Thế Q chấp hành xong án án phạt tù.
Nhân thân: Tháng 4/2011, bị Tòa án nhân dân huyện L Ninh, tỉnh Bình Phước xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/5/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Anh Mai Hữu L, sinh năm 1998.
Địa chỉ: Số 31/16, Đường A, phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 17/5/2019, Dư Thế Q đi xe khách từ nhà ở tỉnh Bình Phước xuống Bến xe Miền Đông, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm T là bạn quen biết trước đây của Q để rủ T đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, nhưng không gặp. Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 19/5/2019, Q đi bộ đến quán cà phê Hoa Hồng (địa chỉ: Số 391 đường Đinh Bộ Lĩnh, Phường 26, quận Bình Thạnh) thì gặp T đang ngồi uống nước tại quán. Lúc này, Q rủ T đi lấy trộm tài sản người khác thì T đồng ý. T sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius (không rõ biển số xe) chở Q đi xung quanh khu vực quận Bình Thạnh để lấy trộm tài sản nhưng không phát hiện ai để sơ hở tài sản. Đến khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, T điều khiển xe chở Q qua Quận 2 khi đi ngang Trường tiểu học Tuệ Đức (địa chỉ: Số 1/5 Bis, đường Lương Định Của, Khu phố 3, phường Bình Khánh, Quận 2) thì Q thấy cổng trường mở và thấy anh Nguyễn Văn Tam là nhân viên bảo vệ trường đang nằm ngủ nên kêu T dừng xe lại và Tài đứng bên ngoài chờ Q. Lúc này, Q đi bộ vào bên trong trường đến khu vực để xe máy rồi đi đến chỗ xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 47K1-299.29 đang dựng, Quảng liền dùng đoản và cây cần tự động đã chuẩn bị sẵn bẻ khóa công tắc của xe, rồi leo lên xe nổ máy, điều khiển về phía cổng trường thì bị anh Nguyễn Minh T là nhân viên của Trường tiểu học Tuệ Đức chặn lại hỏi thì Q bỏ xe chạy bộ ra cổng, anh T liền truy hô và cùng với anh Tam đuổi theo bắt giữ Q cùng với tang vật giao cho Công an phường Bình Khánh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 2, Dư Thế Q khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như nội dung đã nêu trên. Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 210/HĐĐGTS-TCKH ngày 17/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận 2 kết luận: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 47K1-299.29 trị giá: 16.000.000 (mười sáu triệu) đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 2 đã thu giữ, tạm giữ T liệu, đồ vật sau:
- 01 (một) chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 47K1- 299.29 (đã qua sử dụng), quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Hữu Tho (sinh năm: 1990, cư trú: Thôn 2, xã Khuê Ngọc Điền, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk) là chủ sở hữu. Anh Tho gửi xe tại phòng trọ của anh Phạm Xuân Đại Đức (sinh năm 2000, cư trú: Thôn 2, xã Khuê Ngọc Điền, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk) để đi Hà Nội. Sau đó, anh Đức cho anh Mai Hữu Lộc mượn đi làm. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 2 đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho anh Tho;
- 01 (một) cây cần tự động dài khoảng 15 cm, đầu bằng kim loại dài khoảng 8,5 cm, cán bằng nhựa dài khoảng 6,5 cm (đã qua sử dụng).
Về trách nhiệm dân sự: Anh Mai Hữu Lộc là bị hại không yêu cầu bồi thường. Anh Nguyễn Hữu Tho là chủ sở hữu xe đã nhận lại tài sản và cũng không yêu cầu bồi thường.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác.
Bản Cáo trạng số 54/CT-VKSQ2 ngày 26 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Du Thế Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Bị cáo cùng người đàn ông tên Tài (chưa rõ nhân thân, lai lịch) cùng nhau bàn bạc và thực hiện hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 47K1-299.29 tại Trường tiểu học Tuệ Đức, trong đó Quảng là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp, người đàn ông tên T đứng phía ngoài cảnh giới. Tài sản trộm cắp có giá trị 16.000.000 (mười sáu triệu) đồng. Hành vi của Du Thế Q đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và cần phải xử lý nghiêm.
Bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản do lỗi cố ý. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đuợc quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Du Thế Q: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.
Đối với người đàn ông tên Tài chưa xác định đuợc nhân thân, lai lịch, địa chỉ nên chua có cơ sở xứ lý hình sự. Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 2 tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.
Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng: Quá trình bị tạm giam bị cáo đã biết lỗi của mình, rất ăn năn, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và T liệu có trong hồ sơ vụ án đã đuợc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi:
Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã đuợc thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Du Thế Q thừa nhận vào khoảng 13 giờ 00 ngày 19/5/2019, Q cùng người đàn ông tên Tài đã bàn bạc và thực hiện hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 47K1-299.29 tại Trường tiểu học Tuệ Đức (địa chỉ: số 1/5 Bis, đường Lương Định Của, Khu phố 3, phường Bình Khánh, Quận 2), trong đó Q là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp, người đàn ông tên Tài đứng phía ngoài cảnh giới. Theo Kết luận định giá tài sản số 210/HĐĐGTS-TCKH ngày 17/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận 2 thì tài sản trên có giá trị là 16.000.000 đồng.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Du Thế Q đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt đuợc quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, mới chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới với lỗi cố ý. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm mới tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:
Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chua đuợc xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý trong thời gian chưa đuợc xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Hình sự. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đuợc quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về vật chứng:
- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 47K1-299.29 (đã qua sử dụng): Trong quá trình điều tra xác định anh Nguyễn Hữu Tho (sinh năm: 1990, cư trú: Thôn 2, xã Khuê Ngọc Điền, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk) là chủ sở hữu. Xét đây là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Hữu Tho nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 2 đã trả lại cho anh Tho là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
- Đối với 01 cây cần tự động dài khoảng 15 cm, đầu bằng kim loại dài khoảng 8,5 cm, cán bằng nhựa dài khoảng 6,5 cm (đã qua sử dụng): Xét đây là công cụ mà bị cáo dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với người đàn ông tên T chưa xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ, nơi ở nên chưa có cơ sở xứ lý hình sự. Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 2 tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Mai Hữu L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Dư Thế Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Dư Thế Q: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2019.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 cây cần tự động dài khoảng 15 cm, đầu bằng kim loại dài khoảng 8,5 cm, cán bằng nhựa dài khoảng 6,5 cm (đã qua sử dụng).
(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 54/QĐ-VKSQ2 ngày 31/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Dư Thế Q nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đuợc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết hợp lệ bản án.
Bản án 58/2019/HSST ngày 27/08/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 58/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về