Bản án 58/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 58/2019/HS-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thắng L, sinh năm: 1986; HKTT: Số 64, ngách 81,ngõ H, phường M, quận H, thành phố H; Nghề nghiệp: Không; Tình độ văn hóa : 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thanh Đ, sinh năm 1960; Vợ: Nguyễn Thị H (đã ly hôn); Có 02 con: Lớn sinh năm 2007; Nhỏ sinh năm2009; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 46 do Công an quận Tây Hồ lập ngày 11/01/2019 và lý lịch do địa phương cung cấp thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự; Nhân thân: Có 01 tiền án:

Bản án số 331/2014/HSST của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xử phạt bị cáo 03 (ba) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/9/2014).

Bị cáo bị bắt từ ngày 05/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 05/01/2019, Huyền gọi điện thoại cho Nguyễn Thắng L rủ L mang ma túy lên nhà nghỉ Yến Nhi tại 282 Lạc L Quân, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội để cùng sử dụng, L đồng ý. L gọi điện cho Trung hỏi mua ma túy đá. Trung hẹn gặp ở ngõ 279 Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. L điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 29C1-56349 đến khu vực ngõ 279 Đội Cấn. Tại đây, L gặp và mua của Trung 02 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng (ma túy đá) với giá 1.200.000đồng, Trung đưa thêm cho L 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng (ma túy đá) để bù vào số ma túy đá L đã mua của Trung trước đó nhưng không sử dụng được. L cất 02 túi ma túy đá vừa mua vào trong túi quần bên phải phía trước mình đang mặc, cất 01 túi ma túy đá Trung cho thêm vào 01 túi vải màu đen có chữ Mili để vào túi áo ngực bên trái phía trong áo khoác của L, rồi điều khiển xe máy đi về nhà nghỉ Yến Nhi tại 282 Lạc L Quân, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội để gặp Huyền. Khi L đi đến trước cửa số nhà 35 ngõ 282 Lạc L Quân, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Tây Hồ kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra hành chính, L tự tay lấy từ trong túi quần bên phải phía trước L đang mặc 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng giao nộp cho tổ công tác và tự khai nhận là ma túy đá. Tiến hành khám người theo thủ tục hành chính đối với L phát hiện tại túi áo ngực bên trái phía trong áo khoác L đang mặc có 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng , L tự khai nhận là ma túy đá. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ đồ vật đối với 01 túi ma túy đá trên của L.

Vật chứng thu giữ: 02 túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi vải màu đen bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng; 01 Xe máy Honda Wave BKS: 29C1-56349, SK: 302684, SM: 7302748; 01 điện thoại Iphone màu ghi, không kiểm tra IMEI và số tiền 200.000 đồng.

Tại kết luận giám định số 358 ngày 13/01/2019 của phòng phòng kỹ thuật hình sự - công an thành phố Hà Nội kết luận: tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon là Methamphetamine, khối lượng: 2,124gam; tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là Methamphetamine, khối lượng: 0,878 gam. Tổng khối lượng ma túy Methamphetamine trong 03 túi nilon là 3,002gam.

Đối với đối tượng Trung đã bán ma túy cho L, L khai nhận không biết tên, tuổi, địa chỉ, số điện thoại của Trung. Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải L đi xác định tại địa điểm mua ma túy, nhưng không xác định được đối tượng Trung. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ thư tín, điện tín đối với số điện thoại 0867699676 của L, kết quả L không nhận ra được số điện thoại của Trung. Do đó chưa có căn cứ để xử lý đối với Trung.

Đối với đối tượng Huyền, L khai nhận không biết tên, tuổi, địa chỉ, số điện thoại. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ thư tín, điện tín đối với số điện thoại 0867699676 của L, kết quả L không nhận ra được số điện thoại của Huyền. Do đó chưa có căn cứ để xử lý đối với Huyền.

Đối với 01 điện thoại Iphone màu ghi, không kiểm tra IMEI, số tiền 200.000đồng thu giữ của Nguyễn Thắng L, L khai nhận là tài sản của mình.

Đối với 01 xe máy Honda Wave BKS: 29C1-56349, SK: 302684, SM: 7302748 thu giữ của Nguyễn Thắng L, L khai nhận mượn của chị Trần Hương Gi. Khi mượn xe máy, L không nói với chị Gi việc sử dụng xe máy để đi mua ma túy. Chủ sở hữu xe máy trên là chị Phạm Thị Trang D (SN: 1980, HKTT: 123 Ch, quận H, thành phố H). Chị D, chị Gi cùng khai nhận: Ngày 08/5/2018, chị D đã bán chiếc xe máy trên cho chị Gi với giá 8.000.000đồng. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả lại chiếc xe máy Honda Wave BKS: 29C1-56349 cho chị Trần Hương Gi, chị Gi đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Bản cáo trạng số 54/CT-VKSTH ngày 11 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã truy tố bị cáo Nguyễn Thắng L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo đúng nội dung cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thắng L đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và giữ nguyên nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: theo điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Áp dụng Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Về hình phạt đề nghị xử phạt Nguyễn Thắng L từ 36 tháng đến 42 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng

Về vật chứng:

+Tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) bao niêm phong có chữ ký của Nguyễn Thắng L và giám định viên, được đóng dấu của cơ quan CSĐT và 01 túi vải đen bên ngoài có chữ MiLi.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu ghi và số tiền 200.000 đồng.

Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Nói lời sau cùng: Bị cáo biết mình sai, vi phạm pháp luật, xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Tây Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Xét lời khai nhận của bị cáo L tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 05/01/2019, tại trước cửa số nhà 35, ngõ 282 Lạc L Quân, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thắng L đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,002 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác CSĐTTP về ma túy bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viên kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo Nguyễn Thắng L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội . Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy và xâm phạm trật tự an toàn xã hội được bộ luật Hình sự bảo vệ.

Xét nhân thân bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Gây rối trật tự công cộng”, mặc dù đã hết thời hiệu nhưng điều đó thể hiện bị cáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giáo dục pháp luật, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng nay vẫn cố ý phạm tội. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, với lượng ma túy 3,002 gam Methamphetamine, cần áp dụng một hình phạt tù trong khung hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, nên Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 .

[3]Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản và không có thu nhập nên không áp dụng.

[4] Về vật chứng:

+Tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) bao niêm phong có chữ ký của Nguyễn Thắng L và giám định viên, được đóng dấu của cơ quan CSĐT và 01 túi vải màu đen bên ngoài có chữ MiLi.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu ghi và số tiền 200.000 đồng.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thắng L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thắng L 36 ( Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2019.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015

+Tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) bao niêm phong có chữ ký của Nguyễn Thắng L và giám định viên, được đóng dấu của cơ quan CSĐT và 01 túi vải màu đen bên ngoài có chữ MiLi.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu ghi và số tiền 200.000 đồng. (Tang vật trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/4/2019 và Tại kho bạc nhà nước Tây Hồ theo biên bản giao nhận tài sản số 36/12798/BBGN – KBNN ngày 10/4/2019)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thắng L phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về