Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 58/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 181/2019/TLST-HNGĐ ngày 17/7/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2019/QĐXX-ST ngày 06/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 48/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25/9/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1983.

Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở hiện nay: Ấp 6B, xã M, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn Th, sinh năm 1981.

Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình.

(Chị H vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Th vắng mặt lần thứ hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Phạm Văn Th kết hôn với nhau là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 15/11/2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống và kinh tế gia đình không về một mối. Từ khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị đã nhiều lần nói chuyện với anh Th nhưng mâu thuẫn vợ chồng không được khắc phục. Khi chị quyết định nộp đơn xin ly hôn anh Th tại Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, chị đã nói anh Th về Tòa án để giải quyết việc ly hôn nhưng anh Th có nói với chị là anh Th không về Tòa án để giải quyết việc ly hôn. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn Th.

Về con chung: Chị và anh Th có hai con chung là Phạm Trường G, sinh ngày 19/3/2006 và Phạm Thị Ngọc T, sinh ngày 22/11/2013. Sau khi ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, công nợ: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Văn Th vắng mặt tại phiên tòa và không có lời khai.

Tại biên bản làm việc ngày 02/8/2019, ông Phạm Đăng C là bố đẻ anh Phạm Văn Th trình bày: Anh Th và chị H tự nguyện tìm hiểu, kết hôn với nhau ngày 15/11/2004 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn hai vợ chồng đều đi làm ăn và vẫn thường xuyên về gia đình. Tháng 7 năm 2019 chị H có về gia đình ông và nói chuyện về việc nộp đơn xin ly hôn anh Th tại Tòa án, gia đình đã nói chuyện, động viên chị H, sau đó ông đã điện thoại thông báo cho anh Th biết chị H có đơn xin ly hôn anh Th, anh Th nói với ông là để anh nói chuyện trực tiếp trực với chị H. Do anh Th đang đi làm ở tỉnh ngoài nên không về Tòa án để làm việc được, quan điểm của gia đình ông mong muốn anh Th và chị H đoàn tụ ; Về con chung: Anh Th và chị H có hai con chung là Phạm Trường G, sinh năm 2006 và Phạm Thị Ngọc T, sinh năm 2013.

Tại biên bản xác minh ngày 02/8/2019, Ủy ban nhân dân xã Ph cung cấp như sau: Anh Th và chị H kết hôn ngày 15/11/2004 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tây Phong và đều có hộ khẩu thường trú tại Thôn L, xã P, huyện H. Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Th và chị H, chính quyền địa phương không nắm rõ. Quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, các văn bản tố tụng được tống đạt đầy đủ, đúng thời hạn cho các đương sự. Đối với nguyên đơn đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, bị đơn không đến Tòa án làm việc và đã từ bỏ việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Phạm Văn Th; về con chung: Giao hai con chung Phạm Trường G, sinh ngày 19/3/2006 và Phạm Thị Ngọc T, sinh ngày 22/11/2013 cho chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết; về tài sản chung: Không giải quyết; về án phí: Chị Phạm Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa cũng như phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Phạm Văn Th có hộ khẩu thường trú tại Thôn L, xã P, huyện H, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” giữa chị H và anh Th thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. Chị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ vào điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Phạm Văn Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm kết hôn chị H, anh Th đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị H và anh Th chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì mâu thuẫn do tính tình không hợp, trong quá trình giải quyết vụ án, chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Th, bị đơn anh Th đã được Tòa án gửi Thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập tham gia hòa giải nhưng anh Th không đến Tòa án làm việc và cũng không có ý kiến về việc chị H xin ly hôn anh. Điều đó chứng tỏ hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Th là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh Th có hai con chung là Phạm Trường G, sinh ngày 19/3/2006 và Phạm Thị Ngọc T, sinh ngày 22/11/2013. Chị H có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Xét thấy, trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, anh Th không lên Tòa án làm việc để thể hiện quan điểm của mình về việc nuôi dưỡng con chung. Mặt khác cháu Nguyễn Trường Giang có nguyện vọng xin được ở với mẹ, cháu Nguyễn Ngọc Bảo Trâm còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ hơn. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao hai con chung Phạm Trường G và Phạm Thị Ngọc T cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định tại điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

[2.4]. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.5]. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn với anh Phạm Văn Th.

2/ Về con chung: Giao con chung Phạm Trường G, sinh ngày 19/3/2006 và Phạm Thị Ngọc T, sinh ngày 22/11/2013 cho chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

Anh Phạm Văn Th có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung và có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

3/ Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Phạm Thị H phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên lai thu số 0009174 ngày 17/7/2019.

5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:58/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về