Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 58/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 02 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2019 số và Quyết định hoãn phiên tòa số: 40/2019/QĐST-HNGĐ ngày ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1982;

Đa chỉ: ấp N, xã M, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. (có mặt)

Bị đơn: Anh Trần Đức T, sinh năm 1982;

Đa chỉ: ấp N, xã M, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/02/2019, biên bản hòa giải ngày 24/6/2019 và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H trình bày:

Chị và anh Trần Đức T cưới nhau vào năm 2010 do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới hai vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cự cãi với nhau, khi cự cãi thì anh T đuổi mẹ con chị đi khỏi nhà. Từ đầu năm 2018, thì chị và anh T ly thân với nhau, từ khi ly thân hai anh chị không có hàn gắng lại được với nhau. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, không thể hàn gắng lại được và không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng với anh T, vì vậy nay chị yêu cầu ly hôn với anh Trần Đức T.

- Về con chung: có 01 con chung, tên Trần Hoàng L, sinh ngày 22/02/2013. Hiện đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được quyền nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Theo bản tự khai ngày 14/6/2019, biên bản lấy lời khai ngày 14/6/2019, biên bản hòa giải ngày 24/6/2019 bị đơn anh Trần Đức T trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của vợ anh là chị Nguyễn Thị Thu H về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Anh và chị H cưới nhau vào năm 2010 do anh chị tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, hai vợ chồng cự cãi. Vào đầu năm 2018, trong lúc cự cãi với vợ do người khác đến đòi nợ thì anh có đuổi chị H đi nhưng sau đó khoảng 05 ngày thì anh có năn nỉ chị H tha thứ nhưng chị Hà không tha thứ và đã sống ly thân cho tới nay. Nay anh còn thương vợ, thương con khi nào chị H hết giận thì quay về sống chung nên anh không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: có Trần Hoàng L, sinh ngày 22/02/2013. Hiện cháu L đang sống với chị Hà, nếu ly hôn anh đồng ý để chị H được quyền nuôi con chung và anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thấy rằng Thẩm phán đã tuân thủ và tiến hành đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng; thành viên Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bị đơn Anh Trần Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để xét xử nhưng vẫn vắng mặt nên chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trần Đức T là kết hôn, có thực hiện việc đăng ký kết đúng quy định của Luật hôn nhân và gia đình tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B nên là hôn nhân hợp pháp. Do bất đồng quan điểm nên đã nảy sinh mâu thuẫn giữa vợ chồng, làm vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Từ khi ly thân hai vợ chồng không hòa giải mâu thuẫn, không hàn gắn được quan hệ hôn nhân dù cho anh T có tìm cách hòa giải, hàn gắn. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không đồng ý hàn gắn quan hệ hôn nhân với anh T; anh T mặc dù không đồng ý ly hôn và có yêu cầu nuôi con chung nhưng không tham gia phiên tòa xét xử giải quyết quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng, từ đó thấy mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã trầm trọng không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh T không thật sự muốn hàn gắn hôn nhân cũng như quyền được nuôi con nên chị H yêu cầu ly hôn là có căn cứ theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; con chung Trần Hoàng L, sinh ngày 22/02/2013 do chị H nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay, hiện nay cháu được chị Hà chăm sóc tốt, để ổn định hoàn cảnh sống của con nên cần giao cháu L cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, chị H tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận theo Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.

Tài sản chung, nợ chung không ai yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Căn cứ vào các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị: chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thu H về việc yêu cầu ly hôn anh Trần Đức T. Con chung: giao cho chị H quyền trực tiếp trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Hòang L, sinh ngày 22/02/2013, ghi nhận chị H tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, qua kết quả tranh tụng và ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trần Đức T là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh T là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Trần Đức T kết hôn vào năm 2010 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống giữa chị H và anh T phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân. Qua xác minh tại địa phương không thể hiện rõ anh T và chị H mâu thuẫn nguyên nhân gì nhưng đã thể hiện hiện nay chị H và anh T đã sống ly thân với nhau. Trong thời gian sống ly thân, hai bên cũng không tìm ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh T cũng thừa nhận trong một lần hai vợ chồng cự cãi do nóng giận anh có đuổi chị H đi. Tòa án nhân dân huyện Ba Tri cũng đã tiến hành hòa giải để vợ chồng hàn gắn nhưng cũng không có kết quả, anh T không đồng ý ly hôn nhưng tại phiên hòa giải anh tự ý bỏ về và tại phiên tòa anh T vẫn vắng mặt không lý do thể hiện anh T không có thiện chí muốn vợ chồng hàn gắn hôn nhân. Qua đó thấy rằng, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu H đối với anh Trần Đức T là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Trong quá trình chung sống với nhau, chị H và anh T có 01 con chung tên Trần Hoàng L, sinh ngày 22/02/2013 hiện đang sống cùng với chị H. Khi ly hôn, chị Hà yêu cầu được tiếp tục nuôi con và anh T cũng đồng ý để chị Hà tiếp tục nuôi cháu L. Do đó, giao cho chị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu L phù hợp với quy định của Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị H tự nguyện không yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu H đối với anh Trần Đức T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với anh Trần Đức T .

2. Về con chung: Giao con chung Trần Hoàng L, sinh ngày 22/02/2013 cho chị Nguyễn Thị Thu H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Thu H không yêu cầu anh Trần Đức T phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Trần Đức T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Trường hợp anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con. Vì lợi ích của con, hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000044 ngày 06/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre. Chị Nguyễn Thị Thu H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị Nguyễn Thị Thu H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Đức T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:58/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về