Bản án 58/2017/DS-ST ngày 17/11/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC - TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 58/2017/DS-ST NGÀY 17/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 253/2017/TLST-DS ngày 23 tháng 6 năm 2017 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2017/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 10 năm 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2017/QĐST-DS ngày 01 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần P.

Địa chỉ trụ sở: Số A, đường L, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Văn T - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Cao C - Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H.

(văn bản ủy quyền số 48/2016/UQ-CT.HĐQT ngày 02/11/2016).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Minh T - Chuyên viên quan hệ khách hàng.

(văn bản ủy quyền số 03/2017/UQ-OCBTT ngày 02/6/2017).

Bị đơn:

1. Ông Trần Minh T, sinh năm 1964.

2. Bà Phạm Thị H, sinh năm 1963.

Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã P, huyện B, tỉnh Long An.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Anh T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện B, tỉnh Long An.

(Ông T, có mặt; ông T, bà H, anh T, vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 05/6/2017, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần P do người đại diện theo ủy quyền ông Đoàn Minh T trình bày:

Ngày 28/6/2016 ông Trần Minh T, bà Phạm Thị H có vay của Ngân hàng Thương mại Cổ phần P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H số tiền 350.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 0291/2016/HĐTD-CN ngày 28/6/2016, mục đích vay là mua sắm vật dụng gia đình, thời hạn vay là 60 tháng, lãi suất cho vay trong hạn là 10,5%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn.

Để đảm bảo khoản nợ vay trên ông T, bà H thế chấp tài sản theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0291/2016/BĐ ngày 28/6/2016 là quyền sử dụng đất diện tích 456m2, thuộc thửa số 633, tờ bản đồ số 2, loại đất thổ, tọa lạc tại xã P, huyện B, tỉnh Long An theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 673163, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: 1121 QSDĐ/0203-LA do Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức cấp cho ông Trần Minh L ngày 28/11/2000 được Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Bến Lức chỉnh lý sang tên ông Trần Minh T ngày 18/8/2006.

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0291/2016/BĐ ngày 28/6/2016 được lập giữa Ngân hàng TMCP P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H và ông Trần Minh T, bà Phạm Thị H được công chứng tại Phòng Công chứng số 2, tỉnh Long An vào ngày 28/6/2016, số công chứng 3025, quyển số 04 TP/CC-SCC/HĐGD, đã đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức vào ngày 28/6/2016.

Toàn bộ tài sản thế chấp nêu trên hiện do chủ sở hữu đang quản lý, sử dụng.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng nêu trên, ông T và bà H đã thanh toán cho Ngân hàng được 02 kỳ với số tiền là 16.000.000 đồng. Ngoài ra, ông T và bà H không thanh toán thêm bất cứ khoản nào cho Ngân hàng. Ngân hàng TMCP P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H đã nhiều lần yêu cầu ông T, bà H trả nợ nhưng ông T, bà H vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Nay Ngân hàng TMCP P yêu cầu ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H liên đới thanh toán toàn bộ nợ vay cho Ngân hàng số tiền là 392.268.177 đồng trong đó nợ gốc là 340.445.146 đồng và tiền lãi tính đến hết ngày 17/11/2017 là 51.823.032 đồng, kể từ ngày 18/11/2017 ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 0291/2016/HĐTD-CN ngày 28/6/2016 cho đến khi thanh toán xong số tiền nợ gốc.

Ngân hàng yêu cầu tiếp tục Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0291/2016/BĐ ngày 28/6/2016 giữa Ngân hàng TMCP P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H với ông Trần Minh T, bà Phạm Thị H để đảm bảo thu hồi nợ cho Ngân hàng.

Sự việc đã được Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và lập thủ tục hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Anh T vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án.

Tại phiên tòa ông T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông T và bà H liên đới thanh toán cho Ngân hàng số tiền 392.268.177 đồng. Ông T, bà H, anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo pháp luật tố tụng và những người tham gia tố tụng trong vụ án đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn ông Trần Minh T, bà Phạm Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trần Anh T là đúng pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần P buộc ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần P số tiền 392.268.177 đồng. Tiếp tục Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0291/2016/BĐ ngày 28/6/2016 giữa Ngân hàng TMCP P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H với ông Trần Minh T, bà Phạm Thị H để đảm bảo thu hồi nợ cho Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Ngân hàng Thương mại Cổ phần P (sau đây gọi là Ngân hàng) khởi kiện yêu cầu ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H liên đới thanh toán toàn bộ nợ vay và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, Tòa án nhân dân huyện Bến Lức thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

[1.2] Bị đơn ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Ngân hàng và ông Trần Minh T, bà Phạm Thị H ký Hợp đồng tín dụng số 0291/2016/HĐTD-CN ngày 28/6/2016 với số tiền vay là 350.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng nêu trên, khi đến hạn trả nợ, Ngân hàng TMCP P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H đã nhiều lần yêu cầu ông T, bà H trả nợ nhưng ông T, bà H vẫn không thực hiện là vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo Điều 10 của Hợp đồng tín dụng số 0291/2016//HĐTD-CN ngày 28/6/2016 và các Điều 474, 478 Bộ luật dân sự năm 2005.

[2.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T và bà H vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án bất cứ tài liệu, chứng cứ nào thể hiện ý kiến về việc vay nợ nêu trên. Do đó, căn cứ vào Hợp đồng tín dụng số 0291/2016//HĐTD-CN ngày 28/6/2016 và lời trình bày của Ngân hàng xác định ông T, bà H còn nợ Ngân hàng số tiền 392.268.177 đồng nhưng ông T, bà H không thanh toán số tiền trên cho Ngân hàng là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, yêu cầu thanh toán số nợ vay và tiền lãi phát sinh của Ngân hàng là có căn cứ nên được chấp nhận.

[2.3] Xét yêu cầu của Ngân hàng về việc tiếp tục Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất: Ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H đã thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất diện tích 456m2, thuộc thửa đất số 633, tờ bản đồ số 2, loại đất thổ, tọa lạc tại xã P, huyện Bến Lức, tỉnh Long An theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 673163, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 1121 QSDĐ/0203-LA do Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức cấp cho ông Trần Minh L ngày 28/11/2000 được Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Bến Lức chỉnh lý sang tên ông Trần Minh T ngày 18/8/2006 để bảo đảm cho việc vay nợ tại Ngân hàng. Do Ông T, bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, căn cứ Điều 4 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0291/2016/BĐ ngày 28/6/2016 và các Điều 342, 355 Bộ luật dân sự năm 2005, yêu cầu của Ngân hàng về việc tiếp tục Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là có căn cứ nên được chấp nhận.

[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H phải liên đới chịu toàn bộ, Ngân hàng Thương mại Cổ phần P đã nộp tạm ứng nên ông T và bà H phải nộp để hoàn trả cho Ngân hàng.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho Ngân hàng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 474, 478 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần P về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H.

Buộc ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H phải liên đới thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần P số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 17/11/2017 là 392.268.177 đồng (ba trăm chín mươi hai triệu hai trăm sáu mươi tám nghìn một trăm bảy mươi bảy đồng), trong đó nợ gốc là 340.445.146 đồng và tiền lãi tính đến hết ngày 17/11/2017 là 51.823.032 đồng.

Kể từ ngày 18/11/2017 ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng ,tín dụng số 0291/2016/HĐTD-CN ngày 28/6/2016 cho đến khi thanh toán xong số tiền nợ gốc.

Tiếp tục Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0291/2016/BĐ ngày 28/6/2016 được lập giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP P - Chi nhánh T - Phòng Giao dịch H và bên thế chấp là ông Trần Minh T, bà Phạm Thị H để bảo đảm thi hành án cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần P.

Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H phải liên đới chịu 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng), Ngân hàng Thương mại Cổ phần P đã nộp tạm ứng nên ông Trần Minh T và bà Phạm Thị H phải nộp để hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần P.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Trần Minh T và bà Phạm Thị Hiền phải liên đới chịu 19.613.409 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần P số tiền 9.243.974 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005379 ngày 23/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2017/DS-ST ngày 17/11/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:58/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về