Bản án 581/2019/HNGĐ-PT ngày 19/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 581/2019/HNGĐ-PT NGÀY 19/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 19 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2019/TLPT-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp ly hôn.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 72/2019/HNGĐ-ST ngày 22/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1530/2019/QĐ-PT ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 3929/2019/QĐ-PT ngày 29 tháng 5 năm 2019 và quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2514/2019/QĐ-PT ngày 02 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu T, sinh năm 1993.

Địa chỉ thường trú: Đường L, Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ tạm trú: Đường A, tổ U, Khu phố R, phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Hà Bảo Q, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Đường L, Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Người kháng cáo: Bị đơn ông Hà Bảo Q.

(Đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Trần Thị Thu T trình bày:

Bà và ông Hà Bảo Q tự nguyện kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 03/11/2011. Quá trình chung sống, thời gian đầu sống rất hạnh phúc, đến tháng 01/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Q ham chơi, cờ bạc, không chăm lo gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bà và ông Q đã sống ly thân từ tháng 9/2016 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Q để có điều kiện ổn định cuộc sống.

Con chung: Bà và ông Q có 01 con chung tên Hà Trần Gia H, sinh ngày 30/01/2015 bà T yêu cầu nuôi dưỡng trẻ H đến tuổi trưởng thành và yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Tài sản chung, nợ chung: Không có.

Ngày 29/8/2018 nguyên đơn bà Trần Thị Thu T rút một phần yêu cầu khởi kiện không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Bị đơn ông Hà Bảo Q trình bày: Ông và bà Trần Thị Thu T tự nguyện đến với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 03/11/2011. Hạnh phúc kéo dài đến tháng 9/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà T mượn nợ và bỏ nhà dẫn con về quê. Nay bà T làm đơn ly hôn thì ông đồng ý.

Con chung: Ông và bà Tcó 01 con chung tên Hà Trần Gia H, sinh ngày 30/01/2015. Ông Q yêu cầu được nuôi dưỡng trẻ H đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại bản án số 72/2019/HNGĐ-ST ngày 22/01/2019 của Tòa án nhân dân quận N, Thành phố Hồ Chí Minh:

Căn cứ vào Điều 5; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Khoản 1 Điều 207; Điều 212; Điều 246; Điều 220; Điều 271; Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 55; Điều 57, Điều 58 và Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Căn cứ điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị Thu T và ông Hà Bảo Q thuận tình ly hôn.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 156 quyển số 01 do Ủy ban nhân dân Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Thị Thu T và ông Hà Bảo Q vào ngày 03/11/2011 hết hiệu lực pháp luật.)

2. Về con chung: Bà T và ông Q có 01 con chung tên là Hà Trần Gia H, sinh ngày 30/01/2015. Giao trẻ Hà Trần Gia H, sinh ngày 30/01/2015 cho bà T nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành và ông Q tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 (Bốn triệu) đồng. Thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi trẻ H tròn 18 tuổi.

Kể từ ngày bà T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Q không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con như trên thì hàng tháng ông Q còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Ông Q được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở quyền này của ông Quang.

Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hai bên tự khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự theo qui định của pháp luật.

Ngày 24 tháng 01 năm 2019, ông Hà Bảo Q kháng cáo đối với bản án sơ thẩm số 72/2019/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận N, Thành phố Hồ Chí Minh với nội dung: Ông không đồng ý với một phần quyết định của bản án về phần giành quyền nuôi con cho bà Trần Thị Thu T. Vì ông cho rằng bà T vu khống ông cờ bạc để dẫn con bỏ nhà ra đi, về V sinh sống, đến tháng 01 năm 2017 bà T bỏ lên Sài Gòn làm massage ở Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời không trực tiếp nuôi con, giao con cho ông bà ngoại chăm sóc, khoảng thời gian đó ông cùng gia đình ông xuống thăm con nhưng gia đình bà T ngăn cản gây khó khăn không cho ông về thăm con. Bà T làm ở massage, 02 tháng 02 ngày nghỉ phép về thăm con 01 lần cho đến nay cho nên con thiếu thốn tình cảm và sự chăm sóc giáo dục của cả cha lẫn mẹ, sau này cháu sẽ bị ảnh hưởng tâm sinh lý dẫn đến thụ động và bị trầm cảm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác minh tại Công an phường nơi ông cư ngụ, được Công an khu vực xác nhận ông không có tiền án, tiền sự, không cờ bạc dưới mọi hình thức và bản thân ông hiện có chỗ ở và công việc ổn định, đi làm giờ hành chính nên ông kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết cho ông được quyền nuôi con chung là trẻ Hà Trần Gia H, sinh ngày 30 tháng 01 năm 2015. Ông cam kết tạo mọi điều kiện tốt nhất để cho bà Trần Thị Thu T đến thăm và chăm sóc động viên để trẻ được gần gũi cả cha lẫn mẹ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn ông Hà Bảo Q trình bày: Tháng 9 năm 2016, bà T bỏ về quê cùng con. Năm 2017 bà T làm massage tại Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, không trực tiếp chăm lo cho con ông. Mỗi lần ông và gia đình ông xuống quê thăm con thì ba mẹ bà Tkhông cho gia đình ông thăm con. Ông xin được nuôi con vì ông làm giờ hành chính có mặt ở nhà lo cho con. Ở phiên tòa sơ thẩm bà T không yêu cầu nhưng ông tự nguyện cấp dưỡng 4.000.000 (Bốn triệu) đồng/tháng cho con ông nhưng nay ông không đồng ý với mức cấp dưỡng nuôi con nếu bà T được trực tiếp nuôi con.

Nguyên đơn bà Trần Thị Thu T trình bày: Bà đã cùng mẹ ruột và con Hà Trần Gia H tạm trú tại Đường A, tổ U, Khu phố R, phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh và xin cho con học lớp chồi tại trường Mầm non K, phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để tạo điều kiện cho con được sống gần ba mẹ, được ba mẹ cùng nhau chăm sóc nuôi con chung. Bà đề nghị Tòa án giữ nguyên bản bán sơ thẩm cho bà được nuôi trẻ H, bà không yêu cầu Ông Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Vic tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán chủ tọa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Nguyên tắc xét xử, thành phần hội đồng xét xử, sự có mặt của các thành viên trong hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; Phạm vi xét xử phúc thẩm” tại phiên tòa phúc thẩm.

Về nội dung vụ án: Đề nghị bác yêu cầu kháng cáo của ông Hà Bảo Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo ngày 24 tháng 01 năm 2019 của ông Hà Bảo Q nộp trong thời hạn luật định và đã đóng tạm ứng án phí phúc thẩm ngày 28/01/2019, là phù hợp với quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên đơn kháng cáo được chấp nhận.

[2] Về nội dung:

2.1. Quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 156, quyển số 01/2011 do Ủy ban nhân dân Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 03/11/2011 thì quan hệ hôn nhân giữa bà T và Ông Q là hôn nhân hợp pháp.

Tòa án cấp sơ thẩm công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Trần Thị Thu T và ông Hà Bảo Q, phần này các đương sự không kháng cáo nên phát sinh hiệu lực.

2.2. Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Hà Bảo Q, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Án sơ thẩm giao cho bà Trần Thị Thu T nuôi con chung tên Hà Trần Gia H, ông Hà Bảo Q kháng cáo yêu cầu được nuôi trẻ H vì ông cho rằng bà T không trực tiếp nuôi con, giao con cho ông bà ngoại chăm sóc, khi ông cùng gia đình ông xuống thăm con thì gia đình bà Tngăn cản gây khó khăn không cho ông về thăm con. Ông mong muốn được nuôi con và cam kết tạo mọi điều kiện tốt nhất để cho bà T đến thăm và chăm sóc động viên để trẻ được gần gũi cả cha lẫn mẹ.

Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của ông Q, bà T là xuất phát từ tình thương và trách nhiệm đối với con mình, cả hai đều có điều kiện nuôi con như: chỗ ở, thu nhập ổn định, thời gian dành cho con… Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Q, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trước khi nộp đơn ly hôn, bà T và Ông Q đã có thời gian sống ly thân từ 2016, đồng thời từ thời gian này bà T cùng trẻ Gia H về quê tại ấp A, xã T, huyện C, tỉnh V sinh sống. Theo kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã T thì: “Hiện nay bé Hà Trần Gia H, sinh ngày 30/01/2015 đang sống với bà Trần Thị Thu T từ năm 2016 tại ấp A, xã T, huyện C, tỉnh V. Hiện bé Hà Trần Gia H được bà T nuôi dưỡng rất tốt. Từ năm 2016, bé Gia H sống với bà T tại địa chỉ trên ổn định và phát triển bình thường. Vì vậy đề nghị cơ quan chức năng xem xét giao con cho bà T nuôi dưỡng để đảm bảo trẻ phát triển bình thường.”. Tại công văn số 1416/LĐ-TBXH ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Phòng Lao động - Thương binh xã hội quận N, Thành phố Hồ Chí Minh trả lời: “... xem xét giao bé Hà Trần Gia H cho mẹ là Trần Thị Thu T nuôi dưỡng”. Tại phiên tòa phúc thẩm, Ông Q không đưa ra tài liệu chứng cứ chứng minh nào cho rằng bà T nuôi con không tốt. Mặt khác, bà T cung cấp cho Tòa án sổ tạm trú thể hiện bà T và trẻ H đang tạm trú tại đường A, tổ U, Khu phố R, phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh và có xác nhận của ban giám hiệu nhà trường trẻ Hà Trần Gia H đang học lớp chồi tại trường Mầm non K, phường S, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tạo điều kiện và mong muốn được Ông Q cùng nhau chăm sóc con chung. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung Hà Trần Gia H, Hội đồng xét xử xem xét giao con chung tên Hà Trần Gia H cho bà Trần Thị Thu T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là đúng với quy định của pháp luật.

Đối với cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu Ông Q cấp dưỡng nuôi con chung. Tại phiên tòa sơ thẩm Ông Q tự nguyện cấp dưỡng nuôi 4.000.000 (Bốn triệu) đồng/tháng cho đến khi con chung Hà Trần Gia H đến tuổi trưởng thành nếu Hội đồng xét xử giao con chung cho bà T nuôi dưỡng. Tại phiên tòa phúc thẩm, Ông Q không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung. Bà Tkhông yêu cầu Ông Q cấp dưỡng nuôi con chung. Do đó, sửa phần này của bản án sơ thẩm công nhận sự tự nguyện của các đương sự không cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định tại Điều 116, 117 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Phần án phí cấp dưỡng nuôi con chung Ông Q không phải chịu.

Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

2.3. Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn bà Trần Thị Thu T phải chịu án phí sơ thẩm số tiền là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.

2.4. Án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về phần cấp dưỡng nên người kháng cáo ông Hà Bảo Q phải chịu án phí dân sự phúc thẩm số tiền là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147, Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Căn cứ vào Khoản 1 Điều 53, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Hà Bảo Q; Sửa bản án sơ thẩm số 72/2019/HNGĐ-ST ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận N, Thành phố Hồ Chí Minh, tuyên xử:

1. Con chung: Giao con chung tên Hà Trần Gia H, sinh ngày 30 tháng 01 năm 2015 cho bà Trần Thị Thu T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi trưởng thành.

Công nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị Thu T và ông Hà Bảo Q không cấp dưỡng nuôi con chung tên Hà Trần Gia H, sinh ngày sinh ngày 30 tháng 01 năm 2015. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho ông Hà Bảo Q cho đến khi bà Trần Thị Thu T có yêu cầu.

Ông Hà Bảo Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Bà Tcó quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của Ông Q nếu Ông Q lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ thì Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Những phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì phát sinh hiệu lực.

3. Án phí:

3.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị Thu T phải chịu số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng nhưng được khấu trừ số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng mà bà T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2017/0029957 ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận N, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trần Thị Thu T đã nộp đủ.

3.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hà Bảo Q phải chịu số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng nhưng được khấu trừ số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng mà Ông Q đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2018/0000048 ngày 28 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận N, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Hà Bảo Q đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 581/2019/HNGĐ-PT ngày 19/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:581/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về