Bản án 574/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 574/2020/HS-ST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 570/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 579/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 đối với:

Bị cáo Đặng Mã L, sinh năm: 1991 tại Hà Nội; cư trú tại: Thôn Ph, xã Đ, huyện V, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Viết Th và bà Lê Thị H; bị cáo chưa có vợ, con:

Tiền án: Ngày 13/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích:

Tiền sự: Không:

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21 tháng 7 năm 2020 đến nay tại Nhà tạm giữ – Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Hoàng Nh, sinh năm: 1993; cư trú tại: B25, Khu phố 6, phường TT, thành phố Biên H, tỉnh Đồng Nai.

Người làm chứng: Anh Văn Nh H, sinh năm: 1995; cư trú tại: B1, Khu phố 6, phường TT, thành phố Biên H, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Vào khoảng 19 giờ 30 ngày 21 tháng 7 năm 2020, Đặng Mã L đi bộ đến khu vực phường TT, thành phố Biên H, tỉnh Đồng Nai thấy hầm để xe của nhà số B25, khu phố 6, phường TT không đóng cửa, L đi vào bên trong hầm thì phát hiện 01 xe môtô hiệu HALIM biển số 60T7-0324 màu xanh của anh Nguyễn Hoàng Nh có cắm sẵn chìa khóa trên xe, không có người trông coi, L liền nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên. Thực hiện ý định trên, L lén lút tiếp cận, dắt chiếc xe trên ra đường Đồng Khởi, ngồi lên xe nổ máy định tẩu thoát thì bị anh Nh phát hiện, đuổi theo nắm được đuôi xe làm L bị ngã xuống đường cùng chiếc xe, L bỏ xe lại và chạy bộ về hướng ngã tư Tân Phong thì bị anh Nh cùng người dân đuổi theo bắt giữ được L giao cho Công an phường TT lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án: 01 chiếc xe môtô hiệu HALIM màu xanh, biển số 60T7- 0324 (số khung: 016887, số máy: 013787), là tài sản của anh Nguyễn Hoàng Nh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Nh.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 327/TCKH-HĐĐG ngày 24 tháng 7 năm 2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: “01 chiếc xe môtô hiệu HALIM màu xanh, biển số 60T7-0324, số khung: 016887, số máy: 013787, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 25%, trị giá 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng)”.

Về dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Hoàng Nh đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 571/CT-VKSBH ngày 06/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố:

- Đặng Mã L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Đặng Mã L 12 tháng đến 14 tháng tù.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị hại là anh Nguyễn Hoàng Nh và người làm chứng là anh Văn Nh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, lời khai của họ đã đầy đủ và có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử; nên Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố và tội danh:

Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản lấy lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 19 giờ 30 ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại khu vực hầm để xe nhà số B25, khu phố 6, phường TT, thành phố Biên H, tỉnh Đồng Nai, Đặng Mã L đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe môtô hiệu HALIM màu xanh, biển số 60T7-0324, trị giá 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Hoàng Nh thì bị phát hiện, bắt quả tang, điều tra xử lý.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Đặng Mã L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 571/CT-VKSBH ngày 06/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong đời sống của người dân tại các khu dân cư. Bị cáo là người có sức khỏe, tuổi đời còn trẻ, có khả năng lao động nhưng lại lười lao động, để có tiền tiêu xài mà không phải bỏ sức, bị cáo bất chấp quy định của pháp luật lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Mặc dù, trước đó bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 13/11/2019, bị cáo L bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về vật chứng - 01 chiếc xe môtô hiệu HALIM màu xanh, biển số 60T7-0324 (số khung: 016887, số máy: 013787), là tài sản của anh Nguyễn Hoàng Nh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Nh là phù hợp với quy định của pháp luật:

[5] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Bị hại là anh Nguyễn Hoàng Nh đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Đặng Mã L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định:

[7] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Mã L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Đặng Mã L 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 7 năm 2020.

2. Về án phí:

Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Đặng Mã L phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 574/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:574/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về