Bản án 572/2019/HS-PT ngày 25/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 572/2019/HS-PT NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc  thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 484/HSPT ngày 29/10/2019 đối với Huỳnh Nguyên H, Lương Hoàng P do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 103/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo kháng cáo:

1. Huỳnh Nguyên H; sinh năm 1997; tại Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 146/16 Văn Thân, Phường 7, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 204/133/4/28 An Dương Vương, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; con ông Huỳnh Thanh T và bà Chề Cỏng K;

Nhân thân: Ngày 27/8/2013 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 12/3/2015 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 09/6/2019 được tại ngoại; có đơn xin vắng mặt.

2. Lương Hoàng P; sinh năm 1995; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 394/50/16 Lý Thái Tổ, Phường 10, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: E2, ấp 6, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Lương Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị G; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 09/6/2019 được tại ngoại; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lương Hoàng P: Luật sư Phạm Văn V, Văn phòng Luật sư Trần Phạm & cộng sự, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

Vụ án có bị cáo Phạm Văn B không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Nguyên H là người đã phẫu thuật chuyển giới, do không có tiền tiêu xài nên H đã rủ Lương Hoàng P cùng trộm cắp tài sản với phương thức, thủ đoạn như sau: H và P hẹn gặp nhau tại bệnh viện Quận 6, P sử dụng xe mô tô chở H đến khu vực đường Bình Long, quận Tân P để giả làm gái bán dâm đứng chờ tìm khách. Khi có khách mua dâm thì H sẽ dẫn khách đến khách sạn, nhà nghỉ, sau đó lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của khách H sẽ trộm cắp tài sản và nhanh chóng ra ngoài để lên xe mô tô P chờ sẵn tẩu thoát. Tài sản trộm cắp được sẽ chia theo tỷ lệ: H được 80%, P được 20%. Sau khi trộm cắp được tài sản là điện thoại di động H và P thường đem đến cửa hàng điện thoại di động Nhật Qu bán cho Phạm Văn B. Quá trình điều tra xác định được H, P, B đã thực hiện các vụ trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 19 giờ 45 Pt ngày 10/4/2019, anh Trần Quốc N thỏa thuận mua dâm với H, sau đó cả hai đến khách sạn Hoàng Y số 395A P Thọ Hòa, phường P Thọ Hòa, quận Tân P. Khi anh N vào nhà tắm, H trộm 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 và số tiền 5.700.000 đồng trong bóp rồi ra ngoài khách sạn, lên xe P chở tẩu thoát. Khi đến trước số 596 Minh Phụng, Phường 9, Quận 6 thì bị Công an quận Tân P kiểm tra hành chính và thu giữ tài sản.

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 183/KL-HĐĐGTS- TTHS ngày 07/6/2019 của Hội đồng định giá: Điện thoại di động hiệu Iphone 7, trị giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

Vụ thứ hai: Vào khoảng 20 giờ 30 Pt ngày 17/3/2019 H tìm được khách mua dâm là anh Trần Quang D. Sau khi thỏa thuận giá cả mua bán dâm xong, H lên xe mô tô của anh D, cả hai đến nhà nghỉ Hồng H, số 40 Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân P. P điều khiển xe theo sau và đứng chờ H phía ngoài. H đã trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu vàng của anh D rồi bỏ chạy ra khỏi nhà nghỉ lên xe P tẩu thoát, sau đó đến cửa hàng điện thoại di động Nhật Q số 161 đường 3/2, Phường 16, Quận 11 bán cho Phạm Văn B 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng).

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 181/KL-HĐĐGTS- TTHS ngày 06/6/2019 của Hội đồng định giá: Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu vàng, trị giá 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

Vụ thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 20/3/2019, H tìm được khách mua dâm là anh Trương Bình C. Sau khi thỏa thuận giá mua bán dâm, H lên xe của anh Công, đưa anh Công đến nhà nghỉ Hồng H, số 56 Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân P. P điều khiển xe theo sau và đứng chờ H ngoài nhà nghỉ. H đã trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Oppo F7 màu bạc và số tiền 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng trong túi áo của anh Công rồi ra khỏi nhà nghỉ, lên xe P tẩu thoát, sau đó bán điện thoại cho Phạm Văn B với giá 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 179/KL-HĐĐGTS- TTHS ngày 06/6/2019 của Hội đồng định giá: Điện thoại di động hiệu Oppo F7 màu bạc, trị giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng);

Vụ thứ tư: Vào khoảng 20 giờ 15 Pt ngày 27/3/2019 H tìm được khách mua dâm là anh Nguyễn Văn N. Sau khi thỏa thuận giá cả mua bán dâm xong, H lên xe của anh N chỉ dẫn anh N đi đến nhà nghỉ Hồng H, số 56 Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân P. H trộm cắp 01 bóp bên trong có giấy đăng ký xe mô tô biển số 79V1-35928 và số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) của anh N rồi nhanh chóng đi ra ngoài lên xe P chở đi tẩu thoát.

Vụ thứ năm: Khoảng 21 giờ ngày 28/3/2019, H tìm được khách mua dâm là anh Nguyễn B. Sau khi thỏa thuận giá cả mua bán dâm xong, H lên xe của anh B chỉ dẫn anh B đi đến nhà nghỉ Hồng H, số 56 Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân P. Tại đây, H đã trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu OPPO F7 màu đen có ốp lưng màu đỏ và số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm ngàn đồng) của anh B rồi nhanh chóng đi ra ngoài lên xe P chở đi tẩu thoát. Sau đó đem bán điện thoại cho Phạm Văn B với giá 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng). Trong vụ này, H chia cho P số tiền 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng), H được hưởng 2.900.000 (hai triệu chín trăm nghìn) đồng, Bảy được hưởng lợi từ việc bán điện thoại do P và H trộm cắp là 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng).

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 180/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 06/6/2019 của Hội đồng định giá: Điện thoại di động hiệu Oppo F7 màu đen có trị giá 3.700.000 (ba triệu bảy trăm nghìn) đồng.

Vụ thứ sáu: Vào khoảng 21 giờ 30 Pt ngày 29/3/2019, H tìm được khách mua dâm là anh Lý Đức T, Sau khi thỏa thuận giá mua bán dâm, H lên xe của anh T và đưa anh T đến nhà nghỉ Hồng H, số 56 Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân P. H đã trộm cắp 01 cái bóp da, màu đen, bên trong có 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 54U1- 8532 và số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng) rồi nhanh chóng ra ngoài, lên xe P tẩu thoát. Trong vụ này, H chia cho P 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm nghìn đồng), còn H được hưởng 6.400.000 đồng (sáu triệu bốn trăm nghìn đồng);

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 103/2019/HS-ST ngày 06/9/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Nguyên H, Lương Hoàng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Huỳnh Nguyên H 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 09/6/2019;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt: Lương Hoàng P 12 (mười hai) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 09/6/2019;

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn B, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/9/2019 bị cáo Huỳnh Nguyên H làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt do bị cáo có bồi thường cho người bị hại.

Ngày 19/9/2019 bị cáo Lương Hoàng P làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lương Hoàng P khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ cho bị cáo và trình bày hoàn cảnh gia đình của các bị cáo. Bị cáo Huỳnh Nguyên H có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận định án sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngoài ra các bị cáo thực hiện 06 vụ, phạm tội hai lần trở lên, giá trị tài sản chiếm đoạt là 34.300.000 đồng, bị cáo H với vai trò rủ rê lôi kéo, P với vai trò đồng phạm giúp sức. Xét kháng cáo của các bị cáo tại phiên tòa Pc thẩm không có tình tiết nào mới, cấp sơ thẩm đã xem xét cho các bị cáo và tuyên mức án phù hợp với hành vi của các bị cáo. Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về mức án tuyên của cấp sơ thẩm không thống nhất, cụ thể: đối với H là 02 năm tù nhưng với P là 12 tháng, đề nghị điều chỉnh cho đúng quy định của Bộ luật hình sự. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Không đồng tình với quan điểm của Viện kiểm sát về các tình tiết giảm nhẹ, mức án đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bởi vì: Bị cáo P còn nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng cấp sơ thẩm và tại phiên tòa chưa được Viện kiểm sát đề nghị áp dụng cho bị cáo như chưa gây thiệt hại, gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và chưa có tiền án, tiền sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên có căn cứ áp dụng cho bị cáo Điều 54, 65 của Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo mức thấp nhất và cho bị cáo hưởng án treo.

Kiểm sát viên đối đáp: Các bị cáo cùng nhau phạm tội nhiều lần, không đủ điều kiện hưởng án treo theo khoản 3 Điều 4 Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Bị cáo nhất trí nội dung bào chữa của Luật sư, không bổ sung.

Lời nói sau cùng của bị cáo Lương Hoàng P: Cha bị cáo mất, còn có mình mẹ, bị cáo phạm tội lần đầu và nghe theo lời lôi kéo của H, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh; Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh; Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hình thức đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Xét bị cáo Huỳnh Nguyên H có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận: Với thủ đoạn giả làm gái bán dâm, tìm kiếm, dẫn dụ những khách mua dâm vào khách sạn, lợi dụng sơ hở để trộm cắp tiền, điện thoại, từ ngày 17/3/2019 đến 10/4/2019 Huỳnh Nguyên H, Lương Hoàng P đã thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản của 06 bị hại là Trần Quốc N, Trần Quang D, Trương Bình C, Nguyễn B, Nguyễn Văn N, Lý Đức T với tổng giá trị tài sản qua định giá là 34.300.000 đồng. Huỳnh Nguyên H sẽ giả làm gái mại dâm dẫn dụ khách mua dâm, Lương Hoàng P đợi ngoài khách sạn để giúp H tẩu thoát sau khi thực hiện hành vi trộm cắp, Huỳnh Nguyên H thu lợi bất chính 16.100.000 đồng, Lương Hoàng P thu lợi bất chính 4.600.000 đồng.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Huỳnh Nguyên H, Lương Hoàng P về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai và phù hợp với quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Huỳnh Nguyên H kháng cáo yêu cầu xem xét bị cáo đã bồi thường cho bị hại, bị cáo Lương Hoàng P kháng cáo xin xem xét bị cáo có nhân thân tốt, không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là các tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo; ngoài ra, các bị cáo còn phạm tội nhiều lần, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về mức án tuyên của cấp sơ thẩm đối với Huỳnh Nguyên H là 02 năm nhưng đối với Lương Hoàng P là 12 tháng là có sai sót, cần tuyên thời hạn tù bị cáo phải chấp hành là 01 năm tù, nếu tuyên dưới 01 năm mới sử dụng thời hạn chấp hành thời hạn theo tháng tương ứng. Sai sót nhỏ của bản án, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

Nhận định trên đây là quan điểm của Hội đồng xét xử về các ý kiến tranh luận, đối đáp của Luật sư, Kiểm sát viên.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 351; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

n cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Huỳnh Nguyên H 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 09/6/2019;

n cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lương Hoàng P: 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến ngày 09/6/2019;

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 572/2019/HS-PT ngày 25/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:572/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về