Bản án 57/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 57/2019/HS-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 23 tháng 10 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Nhật T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 10 tháng 5 năm 1998 tại Hậu Giang; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Ấp Q, xã H, huyện P, tỉnh Tiền Giang; Tạm trú: Thôn C, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn V; sinh năm 1967 và bà Lê Thị Đ; sinh năm: 1968; gia đình có 04 anh chị em, Nguyễn Nhật T là con út trong gia đình; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Lớn lên được gia đình nuôi dưỡng ăn học đến lớp 5/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình, năm 2017 làm nghề sủa chữa tàu biển tại tỉnh Bến Tre, năm 2018 về lại địa phương làm ruộng cùng gia đình. Ngày 22/3/2019 ra làm nghề sửa chữa tàu biển và tạm trú tại thôn C, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/4/2019 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình. Có mặt theo lệnh trích xuất của Tòa án.

- Người bị hại:

- Cháu Phạm Thị Ngọc N, sinh ngày 06/02/2004; địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt (có đơn xin xử vắng mặt)

Người Giám hộ: Chị Trần Hoàng N, sinh năm 1982; địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre (là mẹ ruột của bị hại). Vắng mặt (có đơn xin xử vắng mặt).

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu N là đối tượng Trẻ em: Bà Nguyễn Thị Hương T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Dương Văn H, sinh năm 1973; HKTT: Huyện C, tỉnh Bến Tre; địa chỉ tạm trú: Thôn C, xã B, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

2. Anh Giang Thành T, sinh năm 1988; HKTT: T, huyện B, tỉnh Bến Tre; địa chỉ tạm trú: Thôn C, xã B, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

3. Anh Lê Nhựt T, sinh năm 1989; HKTT: Ấp T, huyện B, tỉnh Bến Tre; địa chỉ tạm trú: Thôn C, xã B, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

4. Bà Lê Thị B, sinh năm 1956; HKTT: Thôn C, xã B, TP. Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 27 đến ngày 28/4/2019 Nguyễn Nhật T đã hai lần thực hiện hành vi giao cấu đối với Phạm Thị Ngọc N (15 tuổi 02 tháng 21 ngày). Cụ thể:

Lần thứ 1: Đu năm 2019 Nguyễn Nhật T quen và nảy sinh tình cảm với Phạm Thị Ngọc N (Sinh: 06/02/2004, trú tại ấp A, xã A, huyện B, tỉnh bến Tre) qua mạng xã hội Facebook. Ngày 22/3/2019 T bắt xe từ thành phố Đ vào xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre dẫn N về ở tại nhà trọ của T thuê tại thôn C, xã B, thành phố Đ. Khoảng 23h00’ ngày 27/4/2019, khi nằm ở phòng ngủ T đã có hành vi ôm hôn N rồi dùng tay sờ vào những điểm nhạy cảm trên thân thể của N như vú, ngực và âm hộ rồi lần lượt cởi áo quần của cả hai, T nằm lên bụng N dùng dương vật của mình đưa vào âm đạo của N thực hiện hành vi giao cấu được một lúc thì N nói đau rồi dùng tay đẩy T ra sau đó cả hai nằm ngủ.

Lần thứ 2: Vào khoảng 00h00' ngày 28/4/2019, tại địa điểm trên T và N tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu. T dùng tay sờ vào những điểm nhạy cảm trên thân thể của N (vú, ngực và âm hộ, mông, bụng) khoảng 5 phút thì T cởi áo quần của cả hai, T nằm lên bụng của N dùng dương vật cọ xát vào vùng ngoài âm hộ của N khoảng 5 phút thì T và N thực hiện hành vi giao cấu trong thời gian khoảng 10 phút thì T xuất tinh trùng vào âm hộ của N. Sau khi quan hệ xong cả hai ôm nhau ngủ.

Ngày 29/4/2019 bà Trần Hoàng N mẹ của bị hại Phạm Thị Ngọc N đã làm đơn gửi đến Công an tỉnh Quảng Bình trình báo sự việc.

* Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập mẫu vật để giám định gồm 06 sợi tóc của Phạm Thị Ngọc N, 06 sợi tóc của Nguyễn Nhật T và 01 hộp đựng 02 que phết dịch âm đạo lấy từ Phạm Thị Ngọc N.

Kết luận giám đinh y khoa Pháp y tỉnh Quảng Bình về tình dục số: 41/TD ngày 03/5/2019 kết luận: Bộ phận sinh dục ngoài của Phạm Thị Ngọc N không bị tổn thương; màng trinh không rách; tầng sinh môn rách ở vị trí 6 giờ trong dịch âm đạo có xác tinh trùng.

Kết luận giám định của phân viện kỷ thuật hình sự thành phố Đà Nẵng số: 432/C09C(Đ5) ngày 13/5/2019 kết luận: Trong dịch âm đạo thu của Phạm Thị Ngọc N có xác tinh trùng của Nguyễn Nhật T.

* Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bà Trần Hoàng N mẹ của bị hại Phạm Thị Ngọc N, yêu cầu Nguyễn Nhật T bồi thường tổn thất tinh thần và chi phí đi lại tìm cháu Phạm Thị Ngọc N số tiền 15.000.000 đồng. Gia đình Nguyễn Nhật T đã bồi thường 7.000.000 đồng, số tiền còn lại gia đình T đã bồi thường đủ vào ngày 17/10/2019.

Tại bản Cáo trạng số: 47/CT-VKSĐH-TA ngày 17 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Nguyễn Nhật T ra trước Tòa án nhân dân thành phố Đ để xét xử về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã phát biểu lời luận tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX, xét xử bị cáo đúng như toàn bộ nội dung bản Cáo trạng; quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả của hành vi mà mình gây ra, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự cho bị cáo.

Đề nghị HĐXX áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 145; Điểm b, s Khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Nhật T từ 03 - 04 năm tù.

Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Nhật T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như tại cơ quan Cảnh sát điều tra.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày quan điểm: Thống nhất với nội dung Cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát về tội danh và khung hình phạt. Trong vụ án này, hậu quả là bị hại bị xâm hại khi còn rất nhỏ, độ tuổi này cần được sự quan tâm, chăm sóc của gia đình và xã hội. Bị cáo T đã trưởng thành, thừa khả năng biết em N còn trong độ tuổi trẻ em, hiện tại cũng vậy và biết giao cấu với trẻ em là vi phạm pháp luật nhưng không kiềm chế được dục vọng nên đã thực hiện hành vi phạm tội và phải trả giá cho hành vi này. Ngoài phần lỗi của bị cáo còn có phần lỗi của gia đình bị hại trong việc giáo dục, quản lý con cái nên đã xảy ra sự việc này. Về trách nhiệm dân sự, đại diện hợp pháp gia đình bị hại đã nhận bồi thường đầy đủ . Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không kêu oan, không khiếu nại.

[2] Về thủ tục tố tụng Quá trình điều tra và tại phiên tòa, có sự tham gia của đại diện hợp pháp bị hại, Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại được quy định tại Điều 62, Điều 84 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội Lời khai nhận tội của bị cáo được xác định: Từ ngày 27/4/2019 đến ngày 28/4/2019, bị cáo Nguyễn Nhật T biết rõ em Phạm Thị Ngọc N (sinh ngày 06/02/2004) còn trong độ tuổi trẻ em, bị cáo lợi dụng sự thiếu hiểu biết trong nhận thức về tình yêu, tình dục của em N để cố ý thực hiện hành vi giao cấu với N nhiều lần. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, đại diện hợp pháp bị hại, phù hợp với Bản kết luận giám định pháp y về tình dục của Trung Tâm giám định Y khoa – Pháp y, tỉnh Quảng Bình số: 47/TD ngày 03/5/2019 kết luận tình trạng của bị hại Phạm Thị Ngọc N; Biên bản khám nghiệm hiện trường và bản ảnh hiện trường cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Nhật T từ 03 – 04 năm tù. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: Trẻ em có vai trò quan trọng đối với gia đình và xã hội, là nơi gửi gắm những ước mơ, niềm tin và sự hãnh diện của cha mẹ. Vì vậy, những quy định bằng pháp luật để bảo vệ trẻ em, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Bị cáo là người thành niên, khoẻ mạnh, nhận thức được hành vi của bản thân. Bị cáo biết rõ em N còn trong độ tuổi trẻ em nên đã lợi dụng sự chưa chín chắn trong nhận thức về tình yêu, tình dục, sự quản lý không nghiêm khắc của gia đình, đã cố ý thực hiện hành vi giao cấu với em N nhiều lần, mặc dù em N tự nguyện, không bị cưỡng ép nhưng vì để thỏa mãn dục vọng bản năng, bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền về nhân thân cũng như quyền trẻ em được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần của bị hại, tạo dư luận xấu tại địa phương, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của bị hại và gia đình người bị hại. Do đó, cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe phòng ngừa chung. Trong vụ án này, cần giáo dục vai trò, trách nhiệm làm mẹ của bà Trần Hoàng N (mẹ đẻ em Ngà) trong việc quản lý, giáo dục con cái. Tuy biết con mình chưa trưởng thành nhưng mặc nhiên để cho con mình đi chơi xa cùng người bạn của con và đã bị bị cáo T xâm hại tình dục nhiều lần khi N chưa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, ảnh hưởng đến tâm sinh lý, sức khỏe sinh sản của em N. Điều này thể hiện sự vô tâm, thiếu trách nhiệm của người mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con cái.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Nhật T không có.

[6] Bị cáo đã thực hiện hành vi giao cấu với em Phạm Thị Ngọc N nhiều lần từ tháng 27/4/2019 và ngày 28/4/2019 tại nhà trọ mà bị cáo thuê trọ. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thuộc trường hợp bị cáo phạm tội nhiều lần là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thuộc trường hợp thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục bồi thường thiệt hại là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật. Ngoài ra, trước khi mở phiên tòa tại hồ sơ vụ án người bị hại, và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được Hội đồng xét xử xem xét.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại Phạm Thị Ngọc N, đại diện hợp pháp bị hại bà Trần Hoàng N có đơn xin xử vắng mặt và đã nhận đủ số tiền bồi thường, không yêu cầu bị cáo bồi thương thêm có xác nhận của chính quyền địa phương là ủy ban nhân dân xã An Phú T, huyện Ba T, tỉnh Bến Tre. Việc gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường về dân sự là hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a, b, c Khoản 2, Điểm b Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ: 03 phong bì thư bên trong có chứa mẫu dịch âm đạo của Phạm Thị Ngọc Ngà, và các mẫu tóc còn lại của Phạm Thị Ngọc N và Nguyễn Nhật T còn lại sau khi giám định .

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

[10] Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Nhật T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”.

2. Về Điều luật áp dụng:

Căn cứ vào: Điểm a Khoản 2 Điều 145; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án.

3. Hình phạt:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Nhật T 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 30/4/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Nhật T 45 ngày theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, để đảm bảo thi hành án.

4. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a, b, c Khoản 2, Điểm b Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ: 03 phong bì thư bên trong có chứa mẫu dịch âm đạo của Phạm Thị Ngọc N, và các mẫu tóc còn lại của Phạm Thị Ngọc N và Nguyễn Nhật T còn lại sau khi giám định .

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

3. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Nhật T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

523
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:57/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về