Bản án 57/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 57/2019/HS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D (Rim), sinh ngày 09 tháng 6 năm 1993 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 28 phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở hiện nay: Phòng 709 nhà F Chung cư X, thôn C, xã D, huyện E, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S và bà Mai Thị H (cả hai đều đã chết).

Tiền án: Chưa. Tiền sự:

- Ngày 05 tháng 6 năm 2017, bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng.

- Ngày 14 tháng 4 năm 2016, bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 04 tháng 3 năm 2019. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Lê Khắc L, sinh năm 1994; Địa chỉ: Tổ 42 phường F, quận G, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

2. Anh Nguyễn Thành H, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số nhà 402 đường H, phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

3. Anh Trần Long Ph, sinh năm 1993; Địa chỉ: Số nhà 74/6 đường I, phường K, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

4. Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1967; Địa chỉ: Số nhà 442/H42/10 đường H, quận B, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

5. Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1990; Địa chỉ: Tổ 58 phường A, quận B, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 04 tháng 3 năm 2019, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô Exciter biển kiểm soát 43G1 – 08255 đi đến khu vực gần trường Cao đẳng Công nghệ thông tin Hữu Nghị Việt Hàn thuộc quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng mua 02 gói ma túy đá (gồm 01 gói nhỏ và 01 gói lớn) với giá 1.600.000đ của một người phụ nữ (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi mua ma túy xong, D về phòng 709 nhà F Chung cư X, thôn C, xã D, huyện E, thành phố Đà Nẵng, D cất gói ma túy nhỏ vào trong ba lô và để tại phòng, còn gói ma túy lớn D cất giấu trong túi quần trái đang mặc. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, D điều khiển xe mô tô Exciter biển kiểm soát 43G1 – 08255 đi đến quán phở tại số 116 đường Lê Đình Lý, phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để ăn tối thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thu giữ dưới đất gần vị trí D bị bắt có 01 gói ny lông kích thước 03cm x 04cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu G.

Ngoài ra còn thu giữ của D:

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh đen, có số Imei 1: 868125042106712, số Imei 2: 868125042106712, gắn sim số 1: 0901.164.084, sim số 2: 0935.340.592. D dùng để liên lạc cá nhân.

- Số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng), là tiền cá nhân của D.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, biển kiểm soát 43G1 – 08255; số khung: 030356; số máy: 030365 do anh Lê Khắc L đứng tên chủ sở hữu. Đến tháng 5 năm 2018, anh L bán xe cho cửa hàng xe máy cũ H do anh Nguyễn Thành H đứng tên hộ kinh doanh. Cuối tháng 5 năm 2018, anh H bán cho anh Trần Long Ph. Ngày 30 tháng 01 năm 2019, anh Ph bán xe trên cho D. Những lần bán xe trên đều viết giấy tay, chưa thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ. Ngày 04 tháng 3 năm 2019, D sử dụng xe mô tô trên để làm phương tiện phạm tội.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của D tại phòng 709 nhà F Chung cư X, thôn C, xã D, huyện E, thành phố Đà Nẵng thu giữ:

- 01 gói ny lông kích thước 03cm x 03cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (D khai nhận là ma túy đá của D) được niêm phong ký hiệu G1;

- 01 gói ny lông kích thước 04cm x 04cm bên trong chứa mảnh vỡ màu xanh (nghi là ma túy thuốc lắc) được niêm phong ký hiệu G2;

- 02 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa màu xanh kích thước 7cm, cắt nhọn một đầu; 02 cây kéo bằng kim loại (D dùng để sử dụng ma túy);

- 01 cân điện tử màu trắng, kích thước 10cm x 05cm (D không biết nguồn gốc cân của ai);

- 01 ba lô màu xanh đen có dòng chữ hiệu Compass (D dùng để cất giấu ma túy);

- 01 thanh kim loại dài 46cm màu trắng, phần lưỡi dài 30cm, phần cán dài 15cm. Có vỏ là ống bằng kim loại màu đen dài 43cm (D khai là kiếm của D mua về để tự vệ).

Ngoài ra không tạm giữ đồ vật, tài sản gì thêm.

Tại bản kết luận giám định số 63/GĐ-MT ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Phòng kỹ thuật Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong gói ny lông niêm phong ký hiệu G và G1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể G: 1,618 gam; G1: 0,365 gam.

Mảnh vở (viên nén) màu xanh trong gói niêm phong ký hiệu G2 gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu mảnh vỡ (viên nén) G2: 0,095 gam.

Đối với mảnh vở (viên nén) màu xanh kết quả giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng 0,095 gam thu giữ tại phòng 709 nhà F Chung cư X, thôn C, xã D, huyện E, thành phố Đà Nẵng: Kết quả điều tra, phòng trên do ông Nguyễn Hữu T thuê để sinh sống cùng gia đình từ tháng 6 năm 2014. Đến khoảng tháng 01 năm 2018, ông T chuyển về sinh sống tại K442/H42/10 đường H, quận B, thành phố Đà Nẵng. Còn phòng 709 nói trên ông T để lại cho con trai là Nguyễn Hữu H tiếp tục thuê để sinh sống. Nguyễn Hữu H cho bạn là D ở nhờ từ trước khi D bị bắt nửa tháng. Hiện Nguyễn Hữu H không còn cư trú tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ và D khai túi ny lông treo trên tường có chứa viên nén có trước khi D đến ở nên D không biết là của ai, nguồn gốc từ đâu mà có nên chưa có cơ sở để kết luận viên nén màu xanh là của D cất giữ. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tách ra để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Theo bản kết luận giám định số 49/GĐ-VK ngày 20 tháng 5 năm 2019 của Phòng kỹ thuật Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Thanh kim loại và ống kim loại gửi giám định là vũ khí thô sơ.

Hiện tất cả các vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Qua thử nước tiểu, Nguyễn Văn D dương tính với ma túy tổng hợp.

Tại bản cáo trạng số 61/CT- VKSTK ngày 12 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Ðiều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn D, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Ðiều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 24 tháng đến 30 tháng tù giam.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Trả cho Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh đen, có số Imei 1: 868125042106712, số Imei 2: 868125042106712, gắn sim số 1: 0901.164.084, sim số 2: 0935.340.592 và số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng).

Tịch thu tiêu hủy:

- Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 63/GĐ-MT ngày 13 tháng 3 năm 2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- 02 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa màu xanh kích thước 7cm, cắt nhọn một đầu; 02 cây kéo bằng kim loại;

- 01 cân điện tử màu trắng, kích thước 10cm x 05cm;

- 01 ba lô màu xanh đen có dòng chữ hiệu Compass;

- 01 thanh kim loại dài 46cm màu trắng, phần lưỡi dài 30cm, phần cán dài 15cm. Có vỏ là ống bằng kim loại màu đen dài 43cm;

Đối với 01 gói ny lông kích thước 04cm x 04cm bên trong chứa mảnh vỡ màu xanh (nghi là ma túy thuốc lắc) được niêm phong ký hiệu G2, cần tách ra điều tra, xử lý sau.

Tịch thu sung công đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, biển kiểm soát 43G1 – 08255; số khung: 030356; số máy: 030365.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong sự khoan hồng của pháp luật để sớm trở về làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là vào lúc 17 giờ 30 phút, ngày 04 tháng 3 năm 2019, tại số 116 đường Lê Đình Lý thuộc phường Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Nguyễn Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi khám xét nơi ở của Nguyễn Văn D, thu giữ của Nguyễn Văn D tổng số ma túy qua giám định là 1,983 gam ma túy loại Methamphetamine.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 61/CT- VKSTK ngày 12 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Văn D đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo đủ khả năng nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang là tệ nạn của xã hội và là nguyên nhân của các tội phạm khác gây mất an ninh trật tự, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn phạm tội. Bị cáo có 02 tiền sự, cụ thể: Ngày 05 tháng 6 năm 2017, bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng; Ngày 14 tháng 4 năm 2016, bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng. Do vậy, cần phải xét xử nghiêm, hình phạt đối với bị cáo phải thỏa đáng và tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phạt tiền với số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng).

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Bị cáo có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự tại phường A, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến năm 2014. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.

Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh, mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 63/GĐ-MT ngày 13 tháng 3 năm 2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 02 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa màu xanh kích thước 7cm, cắt nhọn một đầu; 02 cây kéo bằng kim loại; 01 cân điện tử màu trắng, kích thước 10cm x 05cm; 01 ba lô màu xanh đen có dòng chữ hiệu Compass; tất cả đều là vật chứng vụ án liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh đen, có số Imei 1: 868125042106712, số Imei 2: 868125042106712, gắn sim số 1: 0901.164.084, sim số 2: 0935.340.592 và số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng), là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, biển kiểm soát 43G1 – 08255; số khung: 030356; số máy: 030365 do anh Lê Khắc L đứng tên chủ sở hữu. Đến tháng 5 năm 2018, anh L bán xe cho cửa hàng xe máy cũ H do anh Nguyễn Thành H đứng tên hộ kinh doanh. Cuối tháng 5 năm 2018, anh Nguyễn Thành H bán cho anh Trần Long Ph. Ngày 30 tháng 01 năm 2019, anh Ph bán xe trên cho D. Những lần bán xe trên đều viết giấy tay, chưa thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ. Tại phiên tòa, bị cáo D khai nguồn gốc chiếc xe là tiền của cô bị cáo đưa cho bị cáo đi mua. Tuy nhiên theo hồ sơ vụ án, lời khai anh Trần Long Ph (là người bán xe cho bị cáo), lời khai của bị cáo, giấy bán xe giữa anh Ph và bị cáo, đều thể hiện bị cáo là người mua xe và trực tiếp sử dụng làm phương tiện đi lại. Do đó lời khai này của bị cáo tại phiên tòa là không có căn cứ. Ngày 04 tháng 3 năm 2019, bị cáo sử dụng xe mô tô trên để làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 thanh kim loại dài 46cm màu trắng, phần lưỡi dài 30cm, phần cán dài 15cm. Có vỏ là ống bằng kim loại màu đen dài 43cm, Ủy ban nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1825/QĐ-XPVPHC ngày 30 tháng 5 năm 2019 về hành vi “Tàng trữ vũ khí thô sơ mà không có giấy phép” với hình thức xử phạt chính là phạt tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng), hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu 01 (một) thanh kim loại và ống kim loại. Xét thấy quyết định trên là phù hợp với quy định của pháp luật nên không đề cập xử lý.

- Đối với mảnh vở (viên nén) màu xanh kết quả giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng 0,095 gam thu giữ tại phòng 709 nhà F Chung cư X, thôn C, xã D, huyện E, thành phố Đà Nẵng: Kết quả điều tra, phòng trên do ông Nguyễn Hữu T thuê để sinh sống cùng gia đình từ tháng 6 năm 2014. Đến khoảng tháng 01 năm 2018, ông T chuyển về sinh sống tại K442/H42/10 đường H, quận B, thành phố Đà Nẵng. Còn phòng 709 nói trên ông T để lại cho con trai là Nguyễn Hữu H tiếp tục thuê để sinh sống. Nguyễn Hữu H cho bạn là D ở nhờ từ trước khi D bị bắt nửa tháng. Hiện Nguyễn Hữu H không còn cư trú tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ và D khai túi ny lông treo trên tường có chứa viên nén có trước khi D đến ở nên D không biết là của ai, nguồn gốc từ đâu mà có nên chưa có cơ sở để kết luận viên nén màu xanh là của D cất giữ. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tách ra để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là có cơ sở.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn D, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

Đối với đối tượng nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy cho D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[8] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn D 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04 tháng 3 năm 2019.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền Nguyễn Văn D 5.000.000đ (năm triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 63/GĐ-MT ngày 13 tháng 3 năm 2019 có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 02 nỏ thủy tinh; 01 ống hút nhựa màu xanh kích thước 7cm, cắt nhọn một đầu; 02 cây kéo bằng kim loại; 01 cân điện tử màu trắng, kích thước 10cm x 05cm; 01 ba lô màu xanh đen có dòng chữ hiệu Compass;

- Tịch thu sung công quỹ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng, biển kiểm soát 43G1 – 08255; số khung: 030356; số máy: 030365.

- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh đen, có số Imei 1: 868125042106712, số Imei 2: 868125042106712, gắn sim số 1: 0901.164.084, sim số 2: 0935.340.592 và số tiền 3.000.000đ, tuy nhiên cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án. 

(Tất cả các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13 tháng 6 năm 2019 và biên lai thu tiền số 007189 ngày 13 tháng 6 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sửdụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về