Bản án 569/2020/HSST ngày 09/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 569/2020/HSST NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 592/2020/HSST ngày 19/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 603/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Giang L, tên gọi khác: không; sinh ngày 26 tháng 3 năm 1965; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở:Tổ 09, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 03/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N;Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N; con ông Đỗ Hữu H (Đã chết), và con bà Lê Thị Th (Đã chết); Vợ: Đoàn Thị B, sinh năm 1968; có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1994.

- Tiền án: 02.

Tại Bản án số 82/2009/HSST ngày 16/9/2009, Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù giam, về tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 01/9/2011.

Tại Bản án số 491/2012/HSST ngày 19/12/2012, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 8 năm tù giam, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 01/5/2019.

- Tiền sự: Ngày 08/4/2005, Ủy ban nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Quyết định đưa vào bắt buộc chữa bệnh, học tập, lao động tại Trung tâm Giáo dục – Lao động – Xã hội thành phố Thái Nguyên, thời hạn 24 tháng. Bị can bỏ trốn chưa chấp hành.

- Nhân thân: Ngày 10/4/2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục Thanh Hà, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 17/4/2004.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/8/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt tại phiên toà).

* Người chứng kiến:Anh Dương Hải N, sinh năm 1971, trú tại: Tổ 3, phường Q, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đoàn Thị B, sinh năm 1968, ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 09, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.(Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 24/8/2020, tổ công tác của Công an phường Q, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ 3 của phường đã phát hiện 02 N giới điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM ANGEL X, màu sơn xanh, mang biển kiểm soát 20H8-1157 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Lúc này, 01 người N giới bỏ chạy, còn 01 người đang ngồi tại xe mô tô chấp hành. Người N giới chấp hành khai có họ tên là Đỗ Giang L và tự giác dùng tay phải lấy từ túi quần phía sau bên phải L đang mặc ra 01 gói nhỏ bọc bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng. L khai nhận đó là Heroine L vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L và niêm phong số chất bột màu trắng thu giữ của L trong phong bì ký hiệu A.Đồng thời, tạm giữ 01xe mô tô biển kiểm soát 20H8 – 1157, số máy: VMVX1CD013082, số khung: RLGXB10AD4D013082.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Đỗ Giang L có khối lượng là 0,130 gam (không phẩy một ba không gam) và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu H.

Tại bản Kết luận giám định số 1118/KL-KTHS ngày 01/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: mẫu chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong kí hiệu H gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,130 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Giang L khai: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 24/8/2020, L đang ở nhà tại tổ 9, phường Q, thành phố Thái Nguyên thì có Lưu Văn Ngọc (tên gọi khác: Báo), sinh năm 1976, trú tại: Tổ 9, phường Q, thành phố Thái Nguyên đến và rủ L đi mua Heroine để cùng nhau sử dụng. L đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM ANGEL X, màu sơn xanh, biển kiểm soát 20H8-1157 chở Ngọc đi. Trên đường đi Ngọc đưa cho L số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) để L trả tiền mua ma túy. Khi đi đến khu vực Tòa án nhân dân tỉnh cũ thuộc phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên, L gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 01 (một) gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng, với giá 100.000 đồng. Mua xong, L cất gói Heroine vừa mua được vào túi quần sau bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô chở Ngọc đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực đường dân sinh thuộc tổ 3, phường Q thì L và Ngọc bị tổ công tác Công an phường Q phát hiện, yêu cầu kiểm tra. Lưu Văn Ngọc ngồi sau đã nhảy xuống xe bỏ chạy còn L dừng xe mô tô chấp hành việc kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L tự giác lấy từ túi quần phía sau bên phải L đang mặc 01 gói Heroine cho tổ công tác như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 600/CT-VKSTPTN ngày 17/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định truy tố Đỗ Giang L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm 0 khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên giữ quyền công tố đã trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đỗ Giang L phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm 0 khoản 2 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Giang L: Từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (Sáu) năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy và 02 dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Hoàn trả cho chị Đoàn Thị B 01 xe mô tô nhãn hiệu ANGEL, lốc máy có ký tự SYM, thân xe có dán tem ANGEL X, biển kiểm soát: 20H8-1157, xe đã qua sử dụng.

+ Màu sơn: xanh; Số khung: VMVX1CD013082;

+ Số máy: RLGXB10AD4D013082; Số loại: VA6;+ Dung tích xi lanh: 97 Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo,người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.Lời nói sau cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án,căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa,Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Giang L và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2].Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Giang L thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với vật chứng đã thu được,Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 12 giờ 00 phút ngày 24/8/2020, tại khu vực tổ 3, phường Q, thành phố Thái Nguyên, Đỗ Giang L có hành vi tàng trữ 0,130 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Q phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng;Với hành vi tàng trữ 0,130gam Heroine với mục đích để sử dụng như trên hành vi của bị cáo L đã phạm vào tội“ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, do năm 2009 bị cáo đã phạm tội chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm tại bản án số 491/2012/HSST ngày 19/12/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, đến nay bản án này chưa được xóa án tích, do đó lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm 0 khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3]. Bản cáo trạng số 600/CT-VKSTPTN ngày 17/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Đỗ Giang L về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định nhƣ sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy .... thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

...

0) Tái phạm nguy hiểm;

[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác, tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm khánh kiệt kinh tế gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội.Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua heroine phục vụ cho nhu cầu của bản thân, do đó hành vi phạm tội của bị cáo phải xét xử nghiêm khắc buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, xét nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, có 02 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt do đó bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng…tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét bị cáo là người nghiện ma túy,bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, biên bản xác minh và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự ,Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy và 02 dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Đối với: 01 xe mô tô nhãn hiệu ANGEL, lốc máy có ký tự SYM, thân xe có dán tem ANGEL X, biển kiểm soát: 20H8-1157, xe đã qua sử dụng; Màu sơn: xanh; Số khung: VMVX1CD013082; Số máy: RLGXB10AD4D013082;

Số loại: VA6; Dung tích xi lanh: 97.Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo L và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Đoàn Thị B xác định chiếc xe trên là của chị B mua để phục vụ cho việc đi lại làm ăn, chị B không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe của chị để đi ma ma túy, chị có đơn xin lại xe, xét thấy cần trả lại cho chị Đoàn Thị B, sinh năm 1968, ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 09, phường Q, TP.Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quản lý sử dụng.

[9].Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước; Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10].Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, Đỗ Giang L khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực Tòa án nhân dân tỉnh cũ thuộc phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý;Đối với Lưu Văn Ngọc, người theo lời khai của Đỗ Giang L là có hành vi đưa tiền cho L để trả tiền mua ma túy, quá trình xác minh xác định hiện tại Ngọc không có mặt tại địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiếp tục điều tra, xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau;Đối với Đoàn Thị B, quá trình điều tra xác định bà B không biết việc L sử dụng xe mô tô nhãn hiệu SYM ANGEL X biển kiểm soát 20H8 – 1157 để đi mua Heroine. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm 0 Khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1/ Xử phạt: Đỗ Giang L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 24/8/2020.

- Quyết định tạm giam bị cáo Đỗ Giang L 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy và 02 dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Trả lại cho chị Đoàn Thị B, sinh năm: 1968, ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 9, phường Q, TP.Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên: 01 xe mô tô nhãn hiệu ANGEL, lốc máy có ký tự SYM, thân xe có dán tem ANGEL X, biển kiểm soát: 20H8- 1157, xe đã qua sử dụng.

+ Màu sơn: xanh; Số khung: VMVX1CD013082;

+ Số máy: RLGXB10AD4D013082; Số loại: VA6;+ Dung tích xi lanh: 97 (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 111 ngày 12/11/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

4.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đỗ Giang L phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm,có mặt bị cáo,người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 569/2020/HSST ngày 09/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:569/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về