Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn và con chung 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 56/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN VÀ CON CHUNG 

Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở TAND tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 223/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 về việc ly hôn và nuôi con chung. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh ngày 19/9/1989. ĐKHKTT: Thôn Th, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện Nay: Thôn ĐX, xã Q, huyện G, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Viết D, sinh năm 1990.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: ĐKHKTT: Thôn Th, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ hiện nay: Singapore.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1967.

Địa chỉ: Thôn Th, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương.

(Chị H, bà V có đơn xin xét xử vắng mặt, anh D vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại biên bản lấy lời khai chị Phạm Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Viết D được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện C, tỉnh Hải Dương vào ngày 11 tháng 12 năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng hai năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm cả về tình cảm vợ chồng và về kinh tế, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không có tiếng nói chung. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình động viên nhưng tình hình vợ chồng không được cải thiệt. Tháng 2/2012 anh D đi lao động tại Đài loan, chị về bố mẹ đẻ sống. Do vợ chồng xa nhau nên tháng 12/2012 chị cũng đi lao động tại Đài Loan để vợ chồng đoàn tụ, tuy nhiên khi sang Đài Loan vợ chồng sống gần nhau nhưng vẫn thường xảy ra cãi nhau do bất đồng quan điểm. Đến tháng 3/2015 chị về nước, còn anh D vẫn lao động tại Đài Loan. Đến năm 2017 anh D về nước vợ chồng vẫn bất đồng quan điểm về kinh tế thường xuyên cãi nhau nên tháng 3/2017 chị tiếp tục đi Đài Loan trong thời gian nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên quyết định ly hôn nhưng do chị không về nước nên chưa làm thủ tục được, còn anh D tiếp tục đi sang Singapore lao động. Đến tháng 3/2020 chị về nước cùng con sống tại nhà bố mẹ đẻ. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không tồn tại từ năm 2017 nên chị xin được ly hôn với anh D.

- Về con chung: Vợ chồng có có 02 con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 21/10/2015 và Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 16/10/2011. Hiện nay các cháu đang ở cùng với chị. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Gia H và đồng ý để anh D nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Nguyễn Tuấn A. Việc anh D ủy quyền cho mẹ là bà Nguyễn Thị V chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Tuấn A chị hoàn toàn nhất trí. Anh chị không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.

- Về tài sản chung và công nợ: Vợ chồng không có tài sản chung và không nợ ai, không ai vay nợ vợ chồng có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 22314/QLXNC-P5 ngày 01/12/2020 thể hiện: Có trường hợp Nguyễn Viết D, sinh ngày 04/01/1990 tại Hải Dương, CMND số: 142474514 địa chỉ: Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương; đã được Cục Quản lý xuất nhập cảnh lần lượt 02 hộ chiếu; có thông tin xuất nhập cảnh nhiều lần, lần cuối xuất cảnh ngày 09/01/2018 qua cửa khẩu Nội Bài bằng hộ chiếu số C2917679, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh Dương tại Singapo. Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của bà Nguyễn Thị V là mẹ của anh Nguyễn Viết D, bà Vượng xác nhận anh D vẫn thỉnh thoảng liên lạc về nhà. Tòa án yêu cầu bà V cung cấp địa chỉ của anh D ở Singapore và yêu cầu anh D gửi văn bản trình bày ý kiến, quan điểm của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của chị H nhưng bà V không cung cấp được địa chỉ của anh D, anh D cũng không có văn bản gửi về. Tòa án đã tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bà V đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án bà V xác định đã thông tin cho anh D biết, anh D có quan điểm nhất trí ly hôn với chị H và có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Tuấn A, chị H sẽ nuôi cháu Nguyễn Gia H, anh chị không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh D ở nước ngoài thì sẽ ủy quyền cho mẹ là bà V thay mặt nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Tuấn A. Bà V chấp nhận sự ủy quyền của anh Dương.

Tại phiên tòa, Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia phiên tòa. Về nội dung: Đã phân tích đánh giá yêu cầu của nguyên đơn, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 80, 81, 82 Luật HN&GĐ năm 2014 xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Viết D ly hôn..

- Về con chung: Giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Gia H, anh D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tuấn A, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con. Giao cho bà Nguyễn Thị V là mẹ đẻ anh D nuôi cháu Tuấn A đến khi anh D về nước.

- Án phí : Chị H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh D lao động tại Singapo. Theo hướng dẫn Công văn 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án hai lần yêu cầu gia đình anh D cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được, đồng thời Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Do đó Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Chị H, bà V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh D vắng mặt lần thứ hai. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H, bà V và anh D.

[2]. Về Quan hệ hôn nhân:

Chị H và anh D được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn ngày 11/12/2010 tại UBND xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống dẫn đến anh chị đã sống ly thân từ năm 2017 không còn quan tâm đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D. Về phía anh D cũng đã được gia đình cho biết Tòa án đang giải quyết ly hôn theo đơn xin ly hôn của chị H. Anh D cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. HĐXX xét thấy đời sống chung giữa chị H và anh D không có, mục đích hôn nhân của hai người không đạt được nay anh chị mỗi người một nơi, khoảng cách về địa lý càng khiến anh chị không thể cải thiện được cuộc sống vợ chồng nên cần giải quyết cho chị H được ly hôn anh D theo quy định tại Điều 56 Luật HNGĐ là phù hợp tình hình thực tế.

[3]. Về con chung: Chị H và anh D có 02 con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 21/10/2015 và Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 16/10/2011. Hiện nay hai cháu đang ở với chị H. Chị H có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Gia H, anh D có nguyện vọng được nuôi cháu nguyễn Tuấn A và ủy quyền cho bà V là mẹ anh chăm sóc trong thời gian anh ở nước ngoài bà V đồng ý với việc ủy quyền của anh D, chị H cũng nhất trí để anh D nuôi cháu Tuấn A, chị H và anh D cùng không yêu cầu phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Do vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu của các đương sự về việc giao con chung là Nguyễn Gia H cho chị H nuôi dưỡng, giao con chung là Nguyễn Tuấn A cho anh D nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 - Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H không đề nghị nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 17 Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Nguyễn Viết D.

2. Về con chung: Giao con Nguyễn Gia H, sinh ngày 21/10/2015 cho chị Phạm Thị H nuôi dưỡng, chăm sóc. Giao con Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 16/10/2011 cho anh Nguyễn Viết D nuôi dưỡng, chăm sóc. Chị H và anh D không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.

Anh D được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở quyền này.

3. Chấp nhận ủy quyền của anh D cho bà V : Tạm giao cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 16/10/2011 cho bà Nguyễn Thị V chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi anh D về Việt Nam.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, đối trừ số tiền 300.000đ chị H đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số AA/2018/0004765 ngày 02/11/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H, bà Phạm Thị V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Viết D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn và con chung 

Số hiệu:56/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về