TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 56/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ Q VÀ ANH T
Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 115/2021/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021 về việc “ Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên toà số 36/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Q, sinh năm 1996 ( có mặt).
Địa chỉ: Đại Từ, xã Bảo Đài, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
Bị đơn: Bị đơn: Phạm Quang T, sinh năm 1994 (vắng mặt).
Địa chỉ: Đại Từ, xã Bảo Đài, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 24/3/2021 trong các lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị Q trình bày: Chị với anh Phạm Quang T kết hôn với nhau ngày 29/01/2016. Trước khi kết hôn hai bên có được tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đông Phú. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau ngay tại thôn Đại Từ, xã Bảo Đài. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa hợp hạnh phúc, đến năm 2019 vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm, anh T chơi bời nợ nần dẫn đến cuộc sống chung không hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay không còn quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị giải quyết ly hôn với anh T.
Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung:
Về tài sản riêng, chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều nhần nhưng anh Phạm Quang T không đến Tòa án để trình bày quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của chị Q. Bà Nguyễn Thị Thu (mẹ đẻ của anh T) ở cùng địa chỉ xác nhận anh T đi làm xa, thứ 7, chủ nhật mới về nhà. Sau khi nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh T như Thông báo thụ lý, giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, bà đã giao lại cho anh T như cam kết với Tòa án anh T đã nhận được và không có ý kiến gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên toà Thẩm phán và Thư ký Toà án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên toà Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. về phía các đương sự, nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều Điều 147; Điều 227; 228; 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:
Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị Q và anh Phạm Quang T.
Về nuôi con chung: Chưa có, về tài sản riêng, chung, công nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết. Ngoài ra còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của KSV, HĐXX nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Căn cứ vào Điều 28; Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Tại phiên tòa bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về hôn nhân: Chị Q và anh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, khi kết hôn đảm bảo đúng điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống chị Q xác định có phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm, cuộc sống chung không hạnh phúc và vợ chồng ly thân nhau đã lâu từ năm 2019 cho đến nay không còn quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay chị Q vẫn cương quyết đề nghị Toà án giải quyết ly hôn. Vì vậy xác mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Q và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Q theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về nuôi con chung: Các đương sự chưa có con chung.
[4] Về Tài sản riêng, chung; công nợ chung: Do chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị Q ly hôn anh Phạm Quang T.
2. Về án phí: Chị Hoàng Thị Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ chị Q đã nộp tại biên lai thu số AA/2017/0005320 ngày 08/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 13/08/2021 về ly hôn giữa chị Q và anh T
Số hiệu: | 56/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về