Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

 BẢN ÁN 56/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ LY HÔN

 Trong ngày 11 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 769/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 835/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34a/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Biện H - Sinh năm: 1992 Chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã T, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

- Bị đơn: Ông Đỗ H1 - Sinh năm: 1985 Nơi cư trú: Thôn P, xã T, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 04/12/2020, bản tự khai, biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Biện H trình bày: Bà và ông Đỗ H1 tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa vào năm 2010. Quá trình chung sống giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, do ông H1 thường xuyên uống rượu, đánh bà, ngoài ra còn xúc phạm danh dự bà. Hơn 01 năm nay vợ chồng không còn chung sống với nhau. Bà yêu cầu được ly hôn với ông Đỗ H1.

Về con chung: Bà và ông Đỗ H1 có 02 con chung tên Đỗ H2, sinh ngày:

20/8/2008 và Đỗ H3, sinh ngày: 09/01/2014. Bà H yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung H2 và H3 đến tuổi trưởng thành và bà không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà H xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai.

Về sự vắng mặt của ông H1, bà H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Bà H đề nghị Tòa án không tiếp tục hòa giải vì bị đơn đã cố tình vắng mặt.

* Đối với bị đơn ông Đỗ H1: Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa đã tiến hành thực hiện các thủ tục triệu tập, xác minh và niêm yết hợp lệ để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông H1 cố tình trốn tránh không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của bà H nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến trình bày:

+ Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định.

Đối với bị đơn ông Đỗ H1 đã được Tòa án triệu tập, xác minh và niêm yết hợp lệ nhưng ông H1 cố tình trốn tránh không có mặt tại Tòa để làm việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Do vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông H1 là đúng theo quy định của pháp luật.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Biện H được ly hôn với ông Đỗ H1.

- Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Đỗ H2, sinh ngày: 20/8/2008 và Đỗ H3, sinh ngày: 09/01/2014 cho bà Biện H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành và bà không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Bà Biện H không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

- Về nợ chung: Bà Biện H xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai nên đề nghị không xem xét.

- Về án phí: Bà Biện H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, bị đơn ông Đỗ H1 đã được Tòa án niêm yết hợp lệ đến lần thứ hai tại địa phương và nơi cư trú các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng ông H1 vẫn cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng.

Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông Đỗ H1.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Biện H yêu cầu được ly hôn với ông Đỗ H1 và yêu cầu giải quyết nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy bà Biện H và ông Đỗ H1 tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Thân, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa theo Giấy chứng nhận kết hôn số 18/2010 ngày 16/3/2010. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Biện H và ông Đỗ H1 là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu của đương sự, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, biên bản xác minh và được thẩm tra công khai tại phiên tòa nhận thấy:

Trong quá trình chung sống giữa bà H và ông H1 thường xuyên xảy ra mâu thuẫn đã hơn 01 năm nay vợ chồng không ai còn quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng hiện nay không còn. Hội đồng xét xử xét thấy: xuất phát từ những bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, mục đích hôn nhân không đạt được. Đã từ lâu, vợ chồng không còn chung sống với nhau. Tại phiên tòa, ông H1 vẫn cố tình vắng mặt nên coi như tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình. Qua đó, cho thấy ông H1 không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng để duy trì cuộc sống chung hạnh phúc nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là phù hợp. Trên cơ sở xem xét quan điểm trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Bà H và ông H1 có 02 con chung là cháu Đỗ H2, sinh ngày: 20/8/2008 và Đỗ H3, sinh ngày: 09/01/2014; Bà H yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung và không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: Việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy: Trong vụ án này, từ khi mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, bà H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung là H2 và H3. Hiện nay hai con đang đi học và sống ổn định cùng với mẹ. Do đó, quan điểm trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với Hội đồng xét xử nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao 02 con chung là H2 và H3 cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành; bà H không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con chung nên không xét; ông H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở theo quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.3] Về tài sản chung: Bà Biện H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Tại phiên tòa, ông Đỗ H1 vắng mặt nên cần tách ra thành vụ kiện dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

[3.4] Về nợ chung: Bà Biện H xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai nên không xem xét.

[4] Về án phí: Bà Biện H phải chịu án phí dân sự về giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 232, Điều 264, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Biện H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Biện H được ly hôn với ông Đỗ H1.

2. Về con chung: Giao hai con chung là cháu Đỗ H2, sinh ngày: 20/8/2008 và Đỗ H3, sinh ngày: 09/01/2014 cho bà Biện H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến trưởng thành (đủ 18 tuổi). Bà H không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con chung. Ông H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

3. Về án phí: Bà Biện H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0004689 ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà Biện H đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Quy định chung: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 56/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:56/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về