Bản án 56/2019/HS-ST ngày 27/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH V

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 27/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh V, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Đình Tr, sinh ngày 02/01/1953. Nơi cư trú: Thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 08/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; con ông Đỗ Đình Kh (đã chết) và bà Nguyễn Thị Nh (đã chết); vợ: Vũ Thị L, sinh năm 1955 (đã ly hôn); con: 03 con (lớn sinh năm 1977, nhỏ sinh năm 1992); Tiền sự: Không; Tiền án: 01 Bản án số 42/2015/HSST ngày 28/10/2015, Tòa án nhân dân huyện L, V xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” bị cáo ra trại ngày 01/9/2017 và đã chấp hành xong các quyết định của Bản án, chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Hà Trọng Ng, sinh năm 1978

Nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn H, huyện L, tỉnh V, vắng mặt.

Người làm chứng: Phạm Văn B, sinh năm 1991

Nơi cư trú: X, xã D, huyện T, tỉnh V, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 21/5/2019, Đỗ Đình Tr, sinh năm 1953 trú tại thôn V, L, L, V đang ở nhà thì có Hà Trọng Ng, sinh năm 1978 trú tại tổ dân phố C, thị trấn H, L, V và Phạm Văn B, sinh năm 1991 trú tại xã D, T, V. Khi vào nhà, Ng và B ngồi uống nước ở bàn kê giữa nhà rồi Ng hỏi mua của Tr 02 gói ma túy với giá 200.000đồng, Tr đồng ý. Ng đưa cho Tr số tiền 200.000đ, Tr cầm tiền cất vào túi quần đang mặc và lấy ra 02 gói ma tuý Heroine để lên mặt bàn uống nước nơi Ng và B đang ngồi mục đích để bán cho Ng. Tuy nhiên, ngay lúc này lực lượng Công an tỉnh V phát hiện bắt quả tang. thu giữ vật chứng gồm: Thu của Đỗ Đình Tr: trong túi quần bên phải số tiền 200.000đ (Tr khai là số tiền Ng đưa để mua ma tuý), trên mặt bàn uống nước đặt giữa nhà 02 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất cục bột màu trắng (Tr khai là số ma tuý định bán cho Ng) được niêm phong ký hiệu A1, trong túi quần bên trái 07 gói giấy nhỏ bên trong đều chứa chất cục bột màu trắng (Tr khai là số ma tuý Heroine cất giấu để sử dụng và bán cho các con nghiện) được niêm phong ký hiệu A2 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu vàng đồng; Thu giữ của Ng một mảnh giấy, một mặt có ghi các số “7715” (Ng khai đây là bốn số cuối của tờ tiền đưa cho Tr để mua ma tuý, Ng ghi lại để đi đánh số đề).

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh V đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật, tài sản của Đỗ Đình Tr, thu giữ số tiền 500.000đ trong tủ kê giữa nhà.

Ngày 21/5/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh V đã tiến hành trưng cầu Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh V giám định chất ma túy đối với mẫu A1, A2 thu giữ được của Đỗ Đình Tr. Ngày 25/5/2019 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V có Văn bản số 879/KLGĐ kết luận:

“…

5.1. Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,0308g, khối lượng heroine trong 0,0308g mẫu là 0,0240g.

5.2.Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,1291g, khối lượng heroine trong 0,1291g mẫu là 0,1123g”.

Cơ quan giám định đã hoàn lại mẫu vật A1 = 0,0000g; A2 = 0,0411g cùng toàn bộ bao gói.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Đỗ Đình Tr khai nhận nguồn gốc ma tuý Cơ quan công an thu giữ có được do nhờ đối tượng tên là T, SN 1987 nhà ở gần nghĩa trang liệt sỹ xã Bắc Bình, huyện L mua hộ vào sáng ngày 21/5/2019. Sau đó Tr đem số ma túy mua được về nhà chia thành 09 gói nhỏ mục đích để sử dụng và xem có ai mua thì bán kiếm lời.

Tại Cáo trạng số: 55/CT-VKSLT-MT ngày 06 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo Đỗ Đình Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L luận tội đối với bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi đánh giá, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Đình Tr từ 36 tháng đến 42 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết lỗi của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Đỗ Đình Tr đã khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của mình, bị cáo thừa nhận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 21/5/2019, tại nhà ở của mình thuộc thôn V, xã L, huyện L, tỉnh V, Đỗ Đình Tr đã có hành vi bán trái phép 02 gói ma túy heroine có khối lượng 0,0308 với giá 200.000đồng cho Hà Trọng Ng, sinh năm 1978 trú tại tổ dân phố C, thị trấn H, huyện L bị Công an tỉnh V phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Ngoài ra, thu giữ trên người Tr 07 gói ma tuý heroine có khối lượng 0,1291g, Tr khai là số ma tuý để sử dụng và bán cho các con nghiện khác.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai, bản kiểm điểm của bị cáo, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, tang vật chứng đã thu hồi được, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đỗ Đình Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Điều luật quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm””.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Từ việc sử dụng, mua bán ma túy là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp tài sản, giết người. Do vậy, xét thấy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật và có hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, như vậy mới có tác dụng cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

Khi lượng hình, cần xem xét đến tính chất cũng như mức độ thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Do vậy cần áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Tr. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét thấy, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian cần thiết để bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Qua xem xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo Tr thấy rằng, bị cáo là người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với Hà Trọng Ng có trao đổi mua ma tuý của Đỗ Đình Tr để sử dụng, tuy nhiên Ng chưa mua được ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với Phạm Văn B đi cùng với Ng đến nhà Tr tuy nhiên B không biết mục đích của Ng đến nhà Tr để mua ma tuý và cũng không tham gia gì vào việc mua bán ma tuý giữa Tr và Ng nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp. Đối với đối tượng tên là T mua hộ ma túy cho Đỗ Đình Tr vào sáng ngày 21/5/2019 Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an xã Bắc Bình, huyện L xác định có đối tượng tên T, sinh năm 1987 trú tại thôn Bắc Sơn, xã Bắc Bình là đối tượng nghiện ma tuý, có dấu hiệu mua bán ma tuý. Tuy nhiên, hiện tại T không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết T đi đâu, làm gì. Do không triệu tập được T, không có lời khai của T nên không có đủ căn cứ để xem xét hành vi mua ma tuý cho Trại của T. Cơ quan CSĐT Công an huyện L tách ra khi nào triệu tập được T xử lý sau là phù hợp.

[3] Về xử lý vật chứng:

Đối với chất ma túy trong bao gói niêm phong “MẪU TRẢ” do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh V hoàn trả sau khi tiến hành giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 700.000đồng, trong đó có 200.000đồng là tiền Trại có được do bán ma túy trái phép cho Ng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Số tiền 500.000đồng còn lại và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đồng quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản riêng, hợp pháp của Đỗ Đình Tr không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 mẩu giấy, một mặt có ghi các chữ số “7715” là vật chứng cần lưu trong hồ sơ vụ án.

[4] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Bị cáo Đỗ Đình Tr thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Đình Trại phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 46; khoản 2 Điều 47; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Xử phạt: Đỗ Đình Tr 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 21/5/2019.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ của Đỗ Đình Tr.

- Trả lại bị cáo Đỗ Đình Tr 500.000đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 mảnh giấy một mặt có ghi các chữ số “7715” Về án phí: Bị cáo Đỗ Đình Tr được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết tại UBND nơi cư trú của người vắng mặt để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh V xét xử theo trình tự phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 27/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về