Bản án 56/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2019/HSST ngày 12/02/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Minh H; Sinh năm 1981 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: không có; Nơi cư trú: D12/37 ấp 4, xã L, huyện B, Thành phố H; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 00/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2; Hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án:

- Ngày 13/9/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 153/2007/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/8/2010.

- Ngày 30/12/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 327/2010/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/3/2010.

- Ngày 28/8/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 243/2012/HSST) ngày 28/8/2012, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2015.

- Ngày 31/7/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 197/2015/HSST), chấp hành xong hình phạt ngày 07/7/2017.

Tiền sự: không. Nhân thân:

- Ngày 28/6/1999 và ngày 10/7/1999 bị Ủy ban nhân dân xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh xử phạt hành chính số tiền 50.000 đồng và 100.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 06/9/1999 bị Ủy ban nhân dân xã H, huyện Bình Chánh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưua vào cơ sở giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời gian 03 tháng.

- Ngày 25/5/2000 bị Tòa án nhân huyện Bình Chánh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 85/HSST).

- Ngày 23/8/2001 bị Tòa án nhân uyện Bình Chánh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 181/HSST).

- Ngày 28/6/2002 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An xử phạt 20 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”, (theo bản án số 13/HSST) chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/01/2005.

- Ngày 13/7/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 86/2005/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/3/2007.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 23/11/2018, có mặt.

Bị hại: Ông Trang Sỹ Đ, sinh năm: 1970 (vắng mặt)

Địa chỉ: E16/55 ấp 5, xã L, huyện B, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 15/8/2018, Cao Minh H đến quán cháo gà gần chợ Hưng Long để ăn và uống bia, sau đó H đi đến khu vực đê bao Rạch Gia thuộc xã H, huyện Bình Chánh nằm ngủ đến 22 giờ cùng ngày thì thức dậy và đi đến đường An Phú Tây- Hưng Long để mua thuốc hút. Trên đường đi, H gặp ông Trang Sỹ Đ, ông Đ rủ H về nhà tại địa chỉ E16/55 ấp 5, xã H, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh để nhậu, H đồng ý. Ông Đ điều khiển xe mô tô biển số 54N7-1133 chở H về nhà, dựng xe phía trước sân, khóa công tắc điện và cất giữ chìa khóa. Sau khi cả hai uống hết 01 lít rượu, ông Đ muốn nhậu tiếp nhưng H không đồng ý và khuyên ông Đ vào nhà ngủ. Khi ông Đ ra phía sau nhà nằm ngủ thì H đóng cửa sắt trước nhà và dùng một đoạn cây ở trước ban công nhà cột cửa lại. H ra phía sau nhà, thấy ông Đ vẫn còn thức nên đã lấy sợi dây vải ở ngay cửa sau cột cửa lại nhằm mục đich không cho ông Đ đi nhậu nữa. Sau đó H ra trước nhà thì phát hiện xe mô tô biển số 54N7-1133 đang dựng ở sân nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe. H dẫn bộ xe ra đường An Phú Tây - Hưng Long rồi đi về hướng khu vực đê bao Rạch Già. Tại đây, H nhặt một đoạn cây và đập vỡ ốp nhựa mặt nạ xe để phá dây điện ổ khóa xe nhằm mục đích khởi động máy xe để chạy. H giật đứt một số dây điện nhưng vẫn không khởi động được xe. Khi trởi sáng, sợ bị phát hiện nên H đẩy xe vào bụi cây gần đó giấu. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 16/8/2018, H đẩy xe mô tô đến tiệm sửa xe Sơn tại địa chỉ A1/12 ấp 1, xã A, huyện B, Thành phố H và bán chiếc xe cho ông Lê Phạm Lâm S với giá 500.000 đồng và tiêu xài hết. Sau khi phát hiện bị mất xe, ông Trang Sỹ Đ đến Công an xã H trình báo. Công an xã lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thụ lý.

Căn cứ công văn số 2362/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 30/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh đã xác định: 01 xe mô tô biển số 54N7-1133 trị giá 2.500.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Cao Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Vật chứng trong vụ án:

- 01 xe mô tô biển số 54N7-1133.

- 01 khúc gỗ và một số mảnh vỡ nhựa, dây điện của xe mô tô, 01 đoạn vải, 01 đoạn cây trúc ly.

- 01 USB chứa đoạn ghi hình bị cáo Cao Minh H đang thực hiện hành vi lấy trộm xe.

Tại bản Cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 31/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Cao Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt Cao Minh H từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm tù. Ghi nhận trách nhiệm dân sự đã được giải quyết xong và xử lý các vật chứng còn lại theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Vào ngày 15/8/2018, tại địa chỉ E16/55 ấp 5, xã H, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Cao Minh H đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô biển số 54N7-1133 của ông Trang Sỹ Đ. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với kết quả thẩm tra tại phiên tòa.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình. Bị cáo biết việc trộm cắp tài sản hợp pháp của người khác là trái với quy định của pháp luật nhưng vì vụ lợi nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 2.500.000 đồng

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận: Hành vi của bị cáo Cao Minh H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xét thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Xét thấy, bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử lý hình sự về tội “Trộm cắp tài sản”. Vào ngày 31/7/2015, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 197/2015/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/7/2017, bị cáo chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới với lỗi cố ý, như vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo H được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Cao Minh H từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) nâm tù về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về vật chứng:

- 01 xe mô tô biển số 54N7-1133: Qua xác minh, người đứng tên đăng ký xe là bà Trần Thị Thủy, sinh năm: 1964, địa chỉ: E23/58 ấp 5, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Trang Sỹ Đ đã mua chiếc xe trên từ bà Thủy vào khoảng tháng 6 năm 2018 nhưng không làm thủ tục sang tên. Xét thấy đây là tài sản do ông Trang Sỹ Đ đang quản lý và sử dụng hợp pháp, Cơ quan điều tra đã giao trả lại cho ông Đ là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

- 01 khúc gỗ, 01 đoạn cây trúc ly thu giữ của bị cáo: bị cáo đã sử dụng các vật chứng này làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội, xét thấy không có giá trị hoặc không sử dụng được, do đó áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy.

- Một số mảnh vỡ nhựa, dây điện của xe mô tô, 01 đoạn vải: xét thấy các vật chứng này không có giá trị hoặc không sử dụng được, do đó áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy.

- 01 USB chứa đoạn ghi hình bị cáo Cao Minh H đang thực hiện hành vi lấy trộm xe: vật chứng này liên quan đến việc chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, do đó cần bảo lưu hồ sơ vụ án.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại ông Trang Sỹ Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng hồ sơ vụ án thể hiện ông Đ đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu về dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Đối với ông Lê Phạm Lâm S là người đã mua xe của bị cáo, quá trình điều tra ông Sơn không thừa nhận việc mua chiếc xe này. Ông S khai nhận bị cáo có đề nghị bán xe với giá 600.000 đồng nhưng ông không đồng ý mua. Sau đó bị cáo H gửi xe lại tiệm sửa xe của ông để về lấy tiền sửa xe nhưng sau đó không thấy tới nhận lại xe. Hiện tại ông S không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm, khi nào tìm được sẽ tiếp tục xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Cao Minh H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/11/2018.

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả lại cho bị hại ông Trang Sỹ Đ 01 xe mô tô biển số 54N7-1133.

Ghi nhận ông Trang Sỹ Đ đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt trái phép và không có yêu cầu về dân sự đối với bị cáo.

Bảo lưu hồ sơ vụ án 01 USB chứa đoạn ghi hình bị cáo Cao Minh H đang thực hiện hành vi lấy trộm xe (vật chứng này hiện được lưu kèm theo hồ sơ vụ án).

Áp dụng điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 thùng vật chứng có chữ “Niêm phong một khúc gỗ và một số mảnh vỡ nhựa, dây diện của xe mô tô biển số 54N7-1133” và hình dấu Công an xã;

01 hộp vật chứng có chữ “Niêm phong đoạn vải”, chữ ký và hình dấu Công an xã; 01 hộp vật chứng có chữ “Niêm phong đoạn cây trúc ly”, chữ ký và hình dấu Công an xã.

(Các vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/3/2019).

Áp dụng Điều 135, khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Cao Minh H chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được toàn sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về