Bản án 56/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Hữu A – sinh năm 1973, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn V, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu S và bà Nguyễn Thị H (đều đã chết); có vợ Nguyễn Thị H1 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 19 tháng 3 năm 2019, chuyển tạm giam ngày 26 tháng 3 năm 2019; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn K (tên gọi khác: Nguyễn Quang K) – sinh năm 1972, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị C1 (đã chết); có vợ Vũ Thị H2 và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Tại bản án số 02/2014/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện A xử phạt 20 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", chưa thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và khoản tiền thu lời bất chính; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 19 tháng 3 năm 2019, chuyển tạm giam ngày 26 tháng 3 năm 2019; có mặt tại phiên tòa.

- Những người làm chứng: Bà Nguyễn Thị R, bà Nguyễn Thị H1, ông Tống Văn T, anh Phạm Hữu H3, anh Trương Văn L; bà R, bà H1, anh H3 có mặt tại phiên tòa; ông T, anh L vắng mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Sỹ T1; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 00 phút ngày 19 tháng 3 năm 2019, Nguyễn Văn K sang nhà Phạm Hữu A mua heroin để sử dụng. Sau khi trả 100.000đ, Nguyễn Văn K được Phạm Hữu A đưa cho 01 gói heroin. Do muốn nhờ Nguyễn Văn K ở lại bán ma túy hộ nên Phạm Hữu A đã bảo Nguyễn Văn K "Mày ở lại hộ tao tý, tao có việc"; được Nguyễn Văn K đồng ý ở lại bán ma túy, Phạm Hữu A đi vào buồng trong chia ma túy thành các gói nhỏ còn K ngồi ở phòng khách bỏ gói ma túy vừa mua ra sử dụng. Đến khoảng 10 giờ 25 phút, do có 01 thanh niên gọi cổng nhà Phạm Hữu A, Nguyễn Văn K ra gặp thì người này hỏi mua 04 gói heroin. K đi vào trong buồng nói với A (lúc này A vẫn đang ngồi chia ma túy), A đưa cho K 04 gói bảo mang ra bán. K đứng bên trong cổng, đưa tay trái nhận 400.000đ từ người mua và tay phải cầm 04 gói heroin định đưa thì bị lực lượng Công an bắt quả tang; người thanh niên đến mua ma túy chạy thoát. Ngay sau đó lực lượng Công an vào kiểm tra nhà A; phát hiện lực lượng công an, A liền vất 01 cân tiểu ly, 01 ví màu đen và 01 số gói ma túy qua cửa sổ sang vườn nhà bà Nguyễn Thị R ở bên cạnh. Công an đã thu giữ những vật chứng sau:

Thu giữ tại nền đất dưới chân K đứng có 04 gói giấy bạc, KT 1,5x1cm, trong chứa chất bột màu trắng (mẫu 01QT) và số tiền 400.000đ.

Thu giữ trên tay phải Phạm Hữu A số tiền 2.300.000đ. Thu giữ tại vườn nhà bà Nguyễn Thị R:

- 01 gói giấy màu trắng KT 5,5x5cm, trong có túi nilon màu đen, trong túi chứa 01 túi nilon, KT 4x5cm, chứa tinh thể màu trắng (mẫu 02 QT);

- 01 gói giấy màu trắng trong có chất bột màu trắng dạng cục và 21 gói giấy bạc KT 1,5x1cm chứa chất bột màu trắng (mẫu 03 QT);

- 01 túi nilon đen, trong có 02 túi nilon KT 3x4cm, bên trong mỗi túi đều chứa chất bột màu trắng (mẫu 04 QT);

- 01 ví nhỏ màu đen, KT 10x6x2cm, bên trong có 17 gói giấy bạc KT 1,5x1cm, trong chứa chất bột màu trắng (mẫu 05 QT);

- 01 cân tiểu ly màu bạc KT 12x6x2cm.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Hữu A thu giữ: Tại mặt giường trong phòng ngủ 01 túi nilon màu trắng KT 8x5cm, trong có 05 túi nilon nhỏ màu trắng, KT mỗi túi 1,5x1,5cm, bên trong có tinh thể màu trắng (mẫu 01 KX); 01 dao lam, 05 mảnh giấy bạc KT 3x3cm.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn K không thu giữ đồ vật gì.

Tại bản kết luận giám định số 106/KLGĐ(Đ6) ngày 21 tháng 3 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng đã kết luận:

- Chất bột màu trắng của mẫu số 01 (QT) gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,2752 gam là loại: Heroine

- Tinh thể màu trắng của mẫu số 02 (QT) gửi giám định là ma túy có khối lượng 8,8238 gam là loại: Methamphetamine

- Chất bột màu trắng của mẫu số 03 (QT) gửi giám định là ma túy có khối lượng 3,3312 gam là loại: Heroine

- Chất bột màu trắng của mẫu số 04 (QT) gửi giám định là ma túy có khối lượng 7,5785 gam là loại: Heroine

- Chất bột màu trắng của mẫu số 05 (QT) gửi giám định là ma túy có khối lượng 1,0515 gam là loại: Heroine

- Tinh thể màu trắng của mẫu số 01 (KX) gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,9928 gam là loại: Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo Phạm Hữu A, Nguyễn Văn K khai nhận: Bị cáo Phạm Hữu A bắt đầu bán ma túy từ đầu năm 2017, mỗi ngày bị cáo Phạm Hữu A bán được từ 20 đến 30 gói ma túy. Từ khoảng tháng 01 năm 2019, Phạm Hữu A đã thuê Nguyễn Văn K bán ma túy, Phạm Hữu A trả công cho Nguyễn Văn K bằng heroin. Mỗi khi có người hỏi mua ma túy, Phạm Hữu A đưa ma túy cho Nguyễn Văn K để giao cho người mua và Nguyễn Văn K thu tiền đưa lại cho Phạm Hữu A. Nguyễn Văn K không biết Phạm Hữu A cất dấu ma túy ở đâu và khối lượng ma túy của Phạm Hữu A như thế nào. Ngày 19 tháng 3 năm 2019, Phạm Hữu A có nhờ Nguyễn Văn K bán ma túy cho người mua và bị Cơ quan công an bắt quả tang thu giữ vật chứng gồm ma túy và số tiền 2.700.000đ (trong đó có 2.300.000đ thu giữ của Phạm Hữu A, 400.000đ thu giữ của Nguyễn Văn K, nguồn gốc số tiền này có được là do bán ma túy mà có). Nguồn gốc số ma túy (gồm heroin và methamphetamine) bị thu giữ là do Phạm Hữu A đã mua vào sáng ngày 18 tháng 3 năm 2019 của một người đàn ông không quen biết tại đường tàu Trần Nguyên H với giá 12.000.000đ; mục đích để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Ngoài lần bán ma túy bị phát hiện bắt quả tang, lần gần nhất Nguyễn Văn K đã bán ma túy thuê cho Phạm Hữu A cho một người không quen biết vào 12 giờ ngày 16 tháng 3 năm 2019 tại nhà Phạm Hữu A, số tiền 100.000đ có được do bán ma túy, K đã đưa lại cho Phạm Hữu A.

Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Hữu A, Nguyễn Văn K khai nhận như nội dung trên. Ngoài các bị cáo ra, không còn ai khác có liên quan hoặc cùng tham gia thực hiện hành vi mua bán trái phép tại nhà Phạm Hữu A. Việc bị cáo Nguyễn Văn K sử dụng ma túy tại nhà bị cáo Phạm Hữu A là do bị cáo Nguyễn Văn K tự ý, bị cáo Phạm Hữu A không biết và cũng không đồng ý để bị cáo Nguyễn Văn K sử dụng ma túy tại nhà.

Công bố lời khai những người làm chứng, người chứng kiến có nội dung như các bị cáo Phạm Hữu A và Nguyễn Văn K đã khai nhận tại phiên tòa.

Tại Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 21 tháng 8 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo Phạm Hữu A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, phân hóa vai trò các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng các điểm b, p khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Hữu A từ 11 đến 12 năm tù về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Hữu A từ 05 đến 10 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

Áp dụng điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 08 đến 09 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn K từ 05 đến 10 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

- Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo Phạm Hữu A phải nộp lại khoản tiền do phạm tội mà có 100.000đ.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì mẫu vật.

Tịch thu tiêu hủy 01 cân tiểu ly; 01 ví đen; 01 dao lam; 05 mảnh giấy bạc kích thước 3x3cm;

Tịch thu sung công số tiền 2.700.000đ đã thu giữ trong vụ án;

Khi nói lời nói sau cùng, các bị cáo Phạm Hữu A và Nguyễn Văn K đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội:

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang do Công an huyện A lập vào hồi 10 giờ 40 phút ngày 19 tháng 3 năm 2019, phù hợp với Bản kết luận giám định số 106/KLGĐ(Đ6) ngày 21 tháng 3 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, phù hợp với lời khai những người làm chứng, người chứng kiến; phù hợp với vật chứng đã được thu giữ, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Phạm Hữu A và Nguyễn Văn K đã có hành vi bán trái phép 0,2752g heroine nhằm mục đích kiếm lời vào hồi 10 giờ 25 phút ngày 19 tháng 3 năm 2019 tại nhà Phạm Hữu A ở thôn V, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng.

Ngoài khối lượng ma túy nêu trên, Cơ quan Công an còn thu giữ của bị cáo Phạm Hữu A 11,9612 gam heroin và 9,8166 gam methamphetamine, được bị cáo Phạm Hữu A tàng trữ nhằm mục đích bán kiếm lời.

[3] Theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ thì heroine có số thứ tự 09 thuộc danh mục I - Danh mục các chất ma túy; methaphetamine có số thứ tự 323 thuộc danh mục II - Danh mục các chất ma túy.

[4] Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội: “ Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Xét tình tiết định khung hình phạt:

[5] Các bị cáo đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy nên hành vi của các bị cáo đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự " Phạm tội 02 lần trở lên".

[6] Khối lượng heroine bị thu giữ trong vụ án của bị cáo Phạm Hữu A là 12,2364 gam, khối lượng methamphetamine bị thu giữ trong vụ án của bị cáo Phạm Hữu A là 9,8166 gam; tổng khối lượng các chất ma túy gồm heroin, methamphetamine Phạm Hữu A tàng trữ nhằm mục đích bán kiếm lời là 22,053 gam nên hành vi của bị cáo Phạm Hữu A vi phạm điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự "Có từ 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng của các chất đó tương đương với khối lượng ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này". Bị cáo Nguyễn Văn K không biết bị cáo Phạm Hữu A cất dấu ma túy tại đâu và tàng trữ khối lượng là bao nhiêu nên không phải chịu tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[7] Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng; việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[8] Tại bản án số 02/2014/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện A xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 20 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", bị cáo chưa thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và khoản tiền thu lời bất chính nên theo quy định của pháp luật lần phạm tội này là "Tái phạm" vì vậy bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phạm Hữu A không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[9] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; tỏ ra ăn năn, hối cải nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[10] Bị cáo Phạm Hữu A có bố là ông Phạm Hữu S được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về phân hóa vai trò:

[11] Bị cáo Phạm Hữu A là người khởi xướng cũng là người thực hành tội phạm tích cực nhất, trực tiếp đi mua và chia nhỏ, cất giấu ma túy; là người quản lý, sử dụng và được hưởng lợi nhiều nhất số tiền thu được từ việc bán ma túy; thời gian bán ma túy kéo dài hơn nên vai trò của bị cáo là cao nhất trong vụ án. Bị cáo Nguyễn Văn K là người thực hiện việc phạm tội với vai trò giúp sức, tham gia bán ma túy thuê cho bị cáo Phạm Hữu A để được trả công bằng ma túy, không được hưởng lợi bằng tiền và thời gian bán ma túy cũng ngắn hơn nên vai trò của bị cáo Nguyễn Văn K thấp hơn so với vai trò của bị cáo Phạm Hữu A. Bị cáo Phạm Hữu A có vai trò cao hơn bị cáo Nguyễn Văn K, phải chịu nhiều tình tiết định khung hơn nên phải chịu hình phạt cao hơn so với bị cáo Nguyễn Văn K.

- Về hình phạt bổ sung:

[12] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự người phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước. Xét hoàn cảnh gia đình, tính chất mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện nên phạt bị cáo Phạm Hữu A 20.000.000đ, bị cáo Nguyễn Văn K 5.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước.

- Về trách nhiệm dân sự:

[13] Số tiền 100.000đ thu được từ việc bán ma túy vào ngày 16 tháng 3 năm 2019, bị cáo Nguyễn Văn K đã đưa lại cho bị cáo Phạm Hữu A, xét thấy đây là khoản tiền do phạm tội mà có nên cần buộc bị cáo Phạm Hữu A phải nộp lại để sung vào ngân sách nhà nước.

- Về vật chứng, xử lý vật chứng:

[14] Trong vụ án, Cơ quan Điều tra đã thu giữ 12,2364 gam heroin và 9,8166 gam methamphetamine; 01 cân tiểu ly; 01 ví đen; 01 dao lam; 05 mảnh giấy bạc kích thước 3x3cm và số tiền 2.700.000đ.

[15] Xét thấy số ma túy còn lại sau giám định đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[16] Đối với 01 cân tiểu ly; 01 ví đen; 01 dao lam; 05 mảnh giấy bạc kích thước 3x3cm là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, có giá trị sử dụng không lớn nên cần tịch thu tiêu hủy.

[17] Đối với số tiền 2.700.000đ là tài sản có được do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước.

- Về những vấn đề khác:

[18] Đối với hành vi sử dụng ma túy của Nguyễn Văn K tại nhà Phạm Hữu A, do A không biết việc K sử dụng ma túy tại nhà A nên không có căn cứ xử lý đối với Phạm Hữu A về hành vi chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy.

[19] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Hữu A và những đối tượng mua ma túy của các bị cáo do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[20] Đối với Nguyễn Thị H1, Phạm Hữu H3 là vợ, con của Phạm Hữu A không biết việc A, K bán ma túy tại nhà nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

[21] Về án phí: Theo quy định của pháp luật các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điểm b, p khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Hữu A 12 (mười hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác: Nguyễn Quang K) 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù của các bị cáo Phạm Hữu A, Nguyễn Văn K tính từ ngày 19 tháng 3 năm 2019.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Hữu A 20.000.000đồng (hai mươi triệu đồng) để sung vào công quỹ nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn K 5.000.000đồng (năm triệu đồng) để sung vào công quỹ nhà nước.

- Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự Buộc bị cáo Phạm Hữu A phải nộp khoản tiền do phạm tội mà có 100.000đ (một trăm nghìn đồng chẵn) vào ngân sách nhà nước.

- Về xử lý vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì dán kín niêm phong trong chứa chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì của mẫu vật giám định của Phòng PC09-CATP số 106/2019.

Tịch thu tiêu hủy với 01 cân tiểu ly màu bạc KT 12x6x2cm; 01 ví đen KT 10x6x2cm; 01 dao lam; 05 mảnh giấy bạc KT 3x3cm.

Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước số tiền 2.700.000đ đã thu giữ trong vụ án.

 (Toàn bộ số vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện A quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21 tháng 8 năm 2019 của Công an huyện A và Chi cục thi hành án dân sự huyện A).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Các bị cáo Phạm Hữu A, Nguyễn Văn K mỗi người phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Các bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về