Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 56/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 246/2019/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 35/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh PNH; nơi cư trú: Số 11B/65 A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Chị NTDH; ĐKHKTT: Số 11B/65 A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh PNH có đơn khởi kiện ngày 28 tháng 8 năm 2019 yêu cầu Toà án giải quyết cho anh và chị NTDH được ly hôn và trình bày:

Anh và chị NTDH kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, quận C, thành phố Hải Phòng ngày 17 tháng 02 năm 2012. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có với nhau một con chung. Sau đó anh chị bắt đầu nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về tính cách, quan điểm sống. Đến khoảng cuối năm 2018 chị NTDH đã mang con chuyển ra ngoài ở mà không nói gì với anh. Từ đó đến nay, chị NTDH ở đâu, làm gì, anh không được biết. Từ khi chuyển ra ngoài ở, chị NTDH không liên lạc hay báo tin gì về cho anh. Anh có liên hệ với gia đình chị NTDH thì được biết thỉnh thoảng chị NTDH có gọi điện về hỏi thăm gia đình, bố đẻ chị NTDH chỉ biết mẹ con chị NTDH đang ở Hà Nội, còn địa chỉ cụ thể như thế nào thì chị NTDH không nói cho ông biết. Anh PNH cho rằng chị NTDH đã cố tình giấu địa chỉ và không muốn cho anh biết hiện nay chị NTDH đang ở đâu. Qua đó anh PNH cho rằng chị NTDH không còn quan tâm đến chồng và không muốn đoàn tụ cùng anh. Bản thân anh cũng không còn tình cảm với chị NTDH và không có cơ hội để hàn gắn. Do vậy, anh PNH làm đơn đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết cho anh được ly hôn với chị NTDH.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là: D, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2013. Ly hôn anh đề nghị để chị NTDH được nuôi con vì thực tế con chung đang do chị NTDH chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh PNH không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án, bị đơn là chị NTDH vắng mặt tại nơi cư trú vì vậy Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai của chị NTDH về việc giải quyết vụ án. Bố đẻ của chị NTDH cũng cung cấp chị NTDH đã biết việc anh PNH khởi kiện xin ly hôn đối với chị nhưng vì lý do công việc chị NTDH không thể đến Tòa án theo giấy triệu tập và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vì vậy Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho bị đơn theo đúng quy định của Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa anh PNH giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho anh và chị NTDH được ly hôn.

* Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Thẩm phán đã xác định đúng về thẩm quyền giải quyết vụ án; về quan hệ pháp luật tranh chấp; về tư cách tham gia tố tụng; về việc thu thập tài liệu, chứng cứ; về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện Kiểm sát; việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự tại phiên tòa đã được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Số 11B/65 A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh PNH và chị NTDH kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, quận C, thành phố Hải Phòng theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[4] Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Căn cứ các tài liệu,chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của nguyên đơn, biên bản ghi ý kiến của gia đình bị đơn, các biên bản xác minh tại Tổ dân phố nơi anh PNH, chị NTDH cư trú thấy quá trình chung sống giữa anh PNH và chị NTDH có phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính cách, quan điểm sống không hợp nhau. Khoảng cuối năm 2018 chị NTDH đã cùng với con đi khỏi nơi cư trú, không khai báo tạm vắng theo quy định. Anh PNH không biết hiện nay chị NTDH ở đâu, làm gì, chỉ biết chị NTDH vẫn thỉnh thoảng gọi điện về hỏi thăm bố mẹ chị NTDH. Phía gia đình chị NTDH xác nhận thỉnh thoảng chị NTDH có gọi điện về hỏi thăm tình hình sức khỏe bố mẹ, có nói đang ở Hà Nội nhưng không nói rõ cụ thể địa chỉ nơi ở của chị NTDH. Như vậy có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn giữa anh PNH và chị NTDH là có thật. Việc chị NTDH đi khỏi nơi cư trú, vẫn liên lạc với bố mẹ đẻ nhưng không liên lạc với anh PNH, điều đó chứng tỏ chị NTDH không còn muốn tiếp tục chung sống với anh PNH nữa. Anh PNH cho rằng chị NTDH không quan tâm đến chồng và không muốn đoàn tụ cùng anh chung sống là có cơ sở. Xét thấy mâu thuẫn giữa anh PNH và chị NTDH đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[5] Về con chung: Anh PNH và chị NTDH có 01 con chung là: D, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2013. Xét thấy, từ khi chị NTDH mang con đi khỏi nơi cư trú thì chị NTDH là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con, mặt khác cháu là con gái lại còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Nên việc giao con chung cho chị NTDH trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế và nguyện vọng của nguyên đơn. Bởi vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao con D cho chị NTDH trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con do anh PNH không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Anh PNH không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về phía bị đơn quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không lấy được lời khai của bị đơn như đã nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Anh PNH phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của U ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh PNH và chị NTDH được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là: D, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2013 cho chị NTDH trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Anh PNH không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

4. Về án phí: Anh PNH phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008334, ngày 04 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Anh PNH đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:56/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về