Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về ly hôn giữa chị L và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 56/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH T

Ngày 07 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 141/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXX-ST ngày 03 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1995.

Đa chỉ: Xóm 2, thôn A, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình.

Bị đơn: Anh Lại Thế T, sinh năm 1991.

Đa chỉ: Xóm 8, thôn H, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

(Chị Lệ có mặt; Anh Tùng vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/7/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày:

Chị và anh Lại Thế T kết hôn ngày 25/8/2014, đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống cùng gia đình nhà anh Tùng tại xóm 8, thôn H, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình, cuộc sống chung không hạnh phúc như mong muốn. Năm 2015, khi đang mang thai, chị L phát hiện anh T chơi lô đề và nợ nần nhiều nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Khi đó hai bên gia đình đã hòa giải, hỗ trợ về kinh tế để anh T thanh toán tiền nợ. Tuy nhiên, anh T vẫn chứng nào tật ấy, không chịu sửa đổi và tu chí làm ăn để trả nợ, nhiều lần chị L nhận thấy anh chơi lô đề. Đến đầu năm 2019, chị L phát hiện anh T chơi đề dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn lớn. Sau đó, chị L đưa con về nhà mẹ đẻ chị tại xóm 2, thôn A, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình để sinh sống. Đến nay chị xác định vợ chồng không thể đoàn tụ cùng chung sống nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Lại Thế T.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Lại Thị Cẩm T, sinh ngày 30/7/2015. Hiện nay con chung đang sống cùng với chị. Ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản: Vợ chồng chị không có tài sản chung, không có nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị xin rút yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Tại bản tự khai đề ngày 13/8/2019, bị đơn anh Lại Thế Tùng trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T nhất trí với trình bày của chị L về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn và quá trình chung sống. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 mới phát sinh mâu thuẫn về vấn đề kinh tế, bất đồng quan điểm sống. Anh T xác định hiện nay vợ chồng anh đang sống ly thân.

Về con chung: Anh T xác định anh chị có 01 con chung là Lại Thị Cẩm T, sinh ngày 30/7/2015 như chị L trình bày. Sau khi ly hôn, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị L góp cấp dưỡng.

Về tài sản: Anh T xác định anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy: [1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị L khởi kiện xin ly hôn anh Lại Thế T, anh T đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại xóm 8, thôn H, xã Q, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ nhưng anh Tùng không đến để tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên tòa xét xử, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt anh T.

[2]Về nội dung, xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

[3] Về hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Lại Thế T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, hợp pháp, đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình ngày 25/8/2014. Trong quá trình chung sống, giữa vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn nên hiện nay anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, giữa vợ chồng không còn sự yêu thương, quan tâm chăm sóc đến nhau. Về nguyên nhân của mâu thuẫn, chị L trình bày sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không được hạnh phúc như mong muốn, anh Tùng nhiều lần chơi lô đề dẫn đến nợ nần, mặc dù đã được hai bên gia đình hỗ trợ về kinh tế để trả nợ nhưng anh T vẫn chứng nào tật ấy, không sửa đổi. Nhiều lần anh chị đã xô xát, mâu thuẫn nhưng T vẫn không chịu tu chí làm ăn, không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng để trở về đoàn tụ. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cần xử cho chị Trần Thị L được ly hôn với anh Lại Thế T.

[4] Về nuôi con chung: Chị L và anh T có 01 con chung là Lại Thị Cẩm T, sinh ngày 30/7/2015. Chị L và anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Hiện tại cháu Lại Thị Cẩm T đang sống cùng với mẹ, cháu còn nhỏ sinh ngày 30/7/2015, là con gái nên rất cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ. Chị L hiện đang là công nhân may tại công ty TNHH Việt Mỹ tại khu Công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, thành phố Thái Bình, có mức thu nhập trung bình hàng tháng từ 3.800.000 - 6.000.000 đồng, có đủ điều kiện kinh tế để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T. Chị L đang sinh sống cùng gia đình bố mẹ đẻ chị tại xóm 2, thôn A, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình, có nơi ở ổn định. Như vậy, chị L có đầy đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Lại Thế T đã được Tòa án tống đạt, triệu tập hợp lệ nhiều lần, vắng mặt không có lý do. Anh T không cung cấp được cho Tòa án các chứng cứ chứng minh điều kiện kinh tế, nơi ở của mình để làm căn cứ xem xét việc giao con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, cần giao con chung Lại Thị Cẩm T cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp, đảm bảo lợi ích của con chung. Sau khi ly hôn, anh T có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[5] Về mức cấp dưỡng nuôi con, trong quá trình giải quyết vụ án, chị L yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000 đồng/tháng. Tại phiên tòa hôm nay, chị L xin rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu anh Tùng phải góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Xét thấy, việc chị L không yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần chấp nhận.

[6] Về tài sản: Chị L và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần tài sản, nên không đặt ra giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Trần Thị L là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị L và anh Lại Thế T có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Lại Thế T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Lại Thị Cẩm T, sinh ngày 30/7/2015 cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Trần Thị L không yêu cầu anh Lại Thế T góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Anh Lại Thế T có quyền thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về phần tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần tài sản, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Chuyển 300.000 đồng chị L đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình theo Biên lai số 0001400 ngày 13 tháng 8 năm 2019 sang thi hành án phí. Chị L đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị L có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lại Thế T vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về ly hôn giữa chị L và anh T

Số hiệu:56/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về