Bản án 56/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 56/2018/HS-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lýsố 49/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo: NGUYỄN THỊ T (tên gọi khác: Ngọc Anh), sinh ngày 27 tháng 8 năm 1996 tại: A; Nơi ĐKHKTT: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh A; Chỗ ở: Thuê trọ tại phòng 203 Khách sạn Moonlight số 158 Nguyễn Chí Thanh, phường H, quận H thành phố Đ; Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: lao động phổ thông; Con ông Nguyễn Văn S (còn sống) và bà Hà Thị L (còn sống); có chồng là Trần V, sinh năm 1991 và một con trai 02 tuổi; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị bắt tạm giam ngày 10/5/2018. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Chị Hoàng Thị Thanh A. Sinh năm: 2000. Địa chỉ: 183 Duy Hiệu, phường H, quận L thành phố Đ.( Vắng mặt)

- Ông Nguyễn Duy B. Sinh năm: 1979. Địa chỉ: tổ 38, phường C, quận T, thành phố Đ. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 18/4/2018, tại ngã tư Lê Duẩn – Lê Lợi thuộc phường H, quận H thành phố Đ; Tổ tuần tra của Đội Cảnh sát trật tự phối hợp với đội CSĐT tội phạm về Ma túy Công an quận H thành phố Đ kiểm tra hành chính Hoàng Thị Thanh A (Sinh ngày: 18/10/2000, trú 183 Tô Hiệu, phường H, quận L, thành phố Đ) điều khiển xe mô tô Airblde BKS 43C1- 680.98 chở theo sau

Nguyễn Thị T về hành vi không đội mũ bảo hiểm, đồng thời phát hiện, bắt quả tang trong cốp xe mà Tâm đang điều khiển có chứa ma túy.

Tang vật tạm giữ của A và T:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Airblde BKS 43C1- 680.98, số khung: 1808AY202942, số máy : JF27E0242935 ;

- 03 viên nén màu hồng trong cấp xe. Niêm phong ký hiệu A. Đến 12 giờ cùng ngày, khám xét nơi ở của Nguyễn Thị T tại phòng 203Khách sạn Moonlight số 158 Nguyễn Chí Thanh, phường H, quận H thành phố Đ phát hiện thu giữ: 01 viên nén màu hồng gói trong tờ tiền giấy bỏ trong túi xách màu đen của Nguyễn Thị T.

* Theo Kết luận giám định số: 64/GĐ-MT ngày 23/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đ, kết luận: 03 viên nén màu hồng trong gói niêm phong ký hiệu A và 01 viên nén màu hồng trong niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định đều là ma túy, loại MDMA; khối lượng viên nén mẫu A: 0,988 gam; mẫu A1: 0,145 gam (Mẫu A và A1 đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

* Quá trình điều tra, Nguyễn Thị T, Hoàng Thị Thanh A và Nguyễn Duy B (Sinh năm: 1979, trú tổ 38 phường C, quận T, thành phố Đ)- người cho T, A mượn xe khai nhận: Vào tối ngày 17/4/2018, T và A đi nhậu cùng với bạn bè trên đường Như Nguyệt, quận H thành phố Đ. Sau khi nhậu xong, do T và A không có xe về nên B đưa xe mô tô Airblde BKS 43C1- 680.98 để cho T với A đi về rồi sáng mai đem trả. Đến sáng ngày 18/4/2018, A chở T đi đến ngã tư Lê Duẩn - Lê Lợi, quận H thành phố Đ, do cả hai không đội mũ bảo hiểm nên bị tổ tuần tra của Đội Cảnh sát trật tự và đội CSĐT tội phạm về Ma túy Công an quận H thành phố Đ mời về trụ sở làm việc. Kiểm tra thu giữ trong cốp xe 03 viên nén màu hồng (thuốc lắc). T và A đều không thừa nhận là ma túy của mình. Bản thân anh B cho T và A mượn xe nhưng hoàn toàn không biết về 03 viên ma túy này.

Đối với 01 viên ma túy thuốc lắc thu giữ trong túi xách của T thì T khai : Viên ma túy này do bạn của T (Không rõ họ tên, địa chỉ) cho cách đây 01 tuần để sử dụng nhưng T chưa sử dụng và cất trong túi xách màu đen của mình thì bị phát hiện thu giữ mhư đã nêu trên. Nguyễn Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 24/7/2018 Viện kiểm sát nhân dân quận H thành phố Đ đã truy tố Nguyễn Thị T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc hỏi và tranh luận giữa những người tham gia tố tụng công khai, dân chủ và không bị hạn chế,

- Bị cáo Nguyễn Thị T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, không oan.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T từ 12- 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Nguyễn Thị T đã thừa nhận khoảng 12 giờ ngày 18/4/2018, tại phòng 203 Khạch sạn Moonlight số 158 Nguyễn Chí Thanh, phường H, quận H thành phố Đ Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận H thành phố Đ khám xét phát hiện Nguyễn Thị T có hành vi tàng trữ trái phép 0,145 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên biết rất rõ tác hại của ma túy. Ma túy làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thần kinh, tạo ra ảo giác, là tác nhân gây ra các tệ nạn xã hội, được nhà nước quản lý nghiêm nhưng bị cáo vẫn bất chấp lao vào con đường phạm tội. Đối với loại tội phạm này cần phải được nghiêm trị nên cần cách ly bị cáo một thời gian để giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. [4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì thấy: Bị cáo Nguyễn Thị T chưa có tiền án tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, …tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo có thu nhập thấp, điều kiện kinh tế còn khó khăn, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với người bạn cho T 01 viên ma túy để sử dụng hiện chưa xác định được họ tên địa chỉ cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H thành phố Đ đang tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[7] Đối với 03 viên ma túy thu giữ trong cốp xe có khối lượng 0,988 gam,hiện chưa xác định được người nào phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ số ma túy này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận H thành phố Đtách ra, tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[8] Đối với Hoàng Thị Thanh A đi cùng Nguyễn Thị T; Nguyễn Duy B cho T, A mượn xe không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của Thu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H thành phố Đ không xem xét trách nhiệm của A, B là có cơ sở. A, B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an H thành phố Đ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

[9] Đối với xe môtô hiệu Airblade BKS 43C1-680.98 của Nguyễn Duy B cho T và A mượn. B không biết số ma túy thu giữ trong cốp xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho Nguyễn Duy B là có cơ sở.

[10] Từ những nhận định trên, xét thấy lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận H thành phố Đ về tội danh và áp dụng các điều luật cũng như đề nghị mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 10 tháng 5 năm 2018.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người tham gia tố tụng có mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về