Bản án 144/2017/HS-ST ngày 29/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 144/2017/HS-ST NGÀY 29/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố TuyênQuang, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số140/2017/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số142/2017/HSST- QĐ ngày 15/9/2017 đối với bị cáo:

Trần Minh Kh, sinh ngày 08/9/1973 tại Hà nội.

Nơi ĐKHKTT: Tổ X, phường Y, thị xã Ph, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ Z, phường T.H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 4/12; con ông Trần Đặc Đ, sinh năm 1939 và bà Đỗ Thị Th (đã chết); có vợ là Phan Thị Bích H, sinh năm 1978 và 02 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không;  nhân thân:  Ngày16/4/1998 Tòa án nhân dân  tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 24 tháng tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất matúy (Bản án số 37/ST); ngày 13/3/2008, Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (Bản án số 14/2008/HSST).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/6/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trần Minh Kh bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 10/6/2017, bị cáo Trần Minh Kh đi đến khu vực chợ P, thành phố T, mục đích tìm mua hêrôin để sử dụng. Tại chợ P, bị cáo đã mua được 02 gói nhỏ hêrôin với số tiền 400.000 đồng của một người tên H (không biết tên thật, địa chỉ nơi ở), sau đó bị cáo cất dấu số hêrôin mua được vào trong người và đi về nơi ở của mình. Khi bị cáo đi đến khu vực tổ Z, phường T.H, thànhphố T thì bị Công an phường T.H phát hiện, đưa về Trụ sở Công an Phường làm việc. Tại đây bị cáo đã tự giác giao nộp 02 gói nhỏ, bên trong đều chứa chất bột vón cục màu trắng ngà, bị cáo khai nhận là hêrôin, tàng trữ để sử dụng. Công an Phường T.H đã tiến hành niêm phong theo quy định, ngoài ra còn tạm giữ của bịcáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung (đã qua sử dụng).Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo, kết quả (+) dương tính.

Tại Kết luận giám định số 312/GĐKTHS ngày 16/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà trong 02 gói nhỏ thu giữ của bị cáo Trần Minh Kh gửi giám định là hêrôin, trọng lượng 0,218g (không phẩy hai một tám gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 143/QĐ-KSĐT ngày 12 tháng 9 năm2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Trần MinhKh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Minh Kh phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng khoản 1 Điều194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7;điểm  c  khoản  1  Điều  249  của Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, xử phạt bị cáo Trần Minh Kh từ 01năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù.

Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số hêrôin đã thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo 02 chiếc điện thoại di động nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành án; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Trần Minh Kh nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh Kh tiếp tục thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra.

Hành vi phạm tội của bị cáo còn được thể hiện qua biên bản bắt người phạm tội quả tang; tang vật thu giữ; kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Các chứng cứ trên đây đã đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 45 phút ngày10/6/2017, tại khu vực tổ Z, phường T.H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Trần Minh Kh đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,218g (không phẩy hai một tám gam)hêrôin  - là chất  ma  túy được quy định trong bảng  danh  mục I, Nghị  định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ - mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; bị cáo có nhân thân xấu (đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 24 tháng tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản), do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Hiện bị cáo bị truy tố, xét xử theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm1999 và mức hình phạt được quy định từ 02 năm đến 07 năm, xong tại  khoản 1Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì cũng với tội danh "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"  và với trọng lượng ma túy mà bị cáo đã tàng trữ  thì mức hình phạt được quy định đã được giảm xuống là từ 01 năm đến 05 năm. Trong khi đó tại khoản 3Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: ''Điều luật xóa bỏ một tội phạm, mộthình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn... , thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành'',  do vậy, căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử  xét thấy khi lượng hình cần xem xét áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo do có sự thay đổi về pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tuy trước đây bị cáo đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 24 tháng tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy  và Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản nhưng trước khi phạm tội lần này bị cáo thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại  điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý và hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo nhằm mục đích sử dụng, không có mục đích vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với đối tượng tên H, theo bị cáo khai đã bán hêrôin cho bị cáo ở khu vực chợ P, thành phố T, do không xác định được địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ điều tra, xử lý; đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, ngày06/7/2017, Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt hành chính,phạt 750.000 đồng đối với bị cáo, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng:

-  Đối với số hêrôin (là đối tượng giám định hoàn lại) đựng trong phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Trần Minh Kh và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa ma túy  là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành án .

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Minh Kh phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194;  điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:

Xử phạt bị cáo Trần Minh Kh 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam (10/6/2017).

2. Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Trần Minh Kh và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa hêrôin (là đối tượng giám định hoàn lại).

- Trả lại cho bị cáo Trần Minh Kh 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu  NOKIA  vỏ  màu  đen  số  Imei  1  là:  356889072824143,  số  Imei  2  là:356889072824150 (điện thoại đã qua sử dụng) và 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG vỏ  màu hồng, số Imei 1 là: 355079/08/158311/9, số Imei 2 là: 355080/08/158311/7 (điện thoại đã qua sử dụng), nhưng tạm giữ lại để đảm bảoviệc thi hành án.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày25/9/2017.

3. Áp dụng các Điều 99, 231, 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyđịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Bị cáo Trần Minh Kh phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2017/HS-ST ngày 29/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:144/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về