TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 56/2017/DS-ST NGÀY 09/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 09 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 70/2017/TLST - DS, ngày 22 tháng 5 năm 2017 về “tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2017/QĐXXST - DS, ngày 27 tháng 9 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V; Địa chỉ: Tầng x, tòa nhà R, số x, đường B, phường x, quận x, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hoàng Văn Q; Sinh năm: 1962; Địa chỉ: số nhà x, đường T, khóm x, phường x, thành phố T, tỉnh Sóc Trăng, là người đại diện theo ủy quyền “văn bản ủy quyền số 649/2016/UQ-GĐK-TDTD, ngày 17/4/2017”. (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Mai Văn P; Sinh năm: 1994; Địa chỉ: số nhà x, ấp Đ, xã Đ, huyện P, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện lập ngày 17/4/2017 của nguyên đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Hoàng Văn Q trình bày: Ngày 10/01/2015, ông Mai Văn P có ký kết hợp đồng tín dụng số B 0031992 với Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V để vay số tiền là 28.485.000 đồng với lãi suất 3.75%/tháng để tiêu dùng cá nhân. Theo giao kết tại hợp đồng, ông P có trách nhiệm thanh toán cho Công ty số tiền 52.362.000 đồng bao gồm cả nợ gốc và lãi, trả chậm trong 36 tháng, trong 35 tháng đầu mỗi tháng trả 1.455.000 đồng, tháng cuối cùng trả 1.437.000 đồng, kỳ thanh toán đầu tiên bắt đầu từ ngày 16/02/2015. Thực hiện hợp đồng, ông Mai Văn P đã nhận đủ số tiền để tiêu dùng cá nhân và thanh toán cho Công ty được 11 lần với số tiền là 21.676.000 đồng, sau đó trong thời gian Tòa án giải quyết vụ án thì vào ngày 17/10/2017 ông P thanh toán cho Công ty thêm số tiền 4.000.000 đồng, tổng cộng ông P đã thanh toán cho Công ty được số tiền là 25.676.000 đồng (trong đó tiền vay gốc là 8.972.098 đồng, tiền lãi là 16.703.098 đồng), hiện nay ông Phước còn nợ Công ty số tiền gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng là 26.686.000 đồng (trong đó tiền vay gốc còn lại là 19.512.902 đồng, tiền lãi theo hợp đồng là 7.173.098 đồng).
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện và yêu cầu bị đơn ông Mai Văn P thanh lý hợp đồng hoàn trả cho Công ty tổng số tiền gốc và lãi theo hợp đồng là 26.686.000 đồng. Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Công ty có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Mai Văn P phải trả lãi cho Công ty theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
- Đối với bị đơn ông Mai Văn P thì sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập ông P 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác, nhưng không thể thực hiện được thủ tục cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho ông P được vì ông P đã bỏ địa phương đi và không thông báo cho Tòa án và nguyên đơn biết việc đã thay đổi địa chỉ nơi cư trú và địa chỉ nơi cư trú mới, nên căn cứ vào khoản 3 Điều 70, khoản 1 Điều 72, khoản 3 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho ông P theo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn ông Mai Văn P đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
- Tại phiên toà, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thâm phan , Thư ký, Hôi đông xet xư va những người tham gia tố tụng trong qua trinh giai quyêt vu an kê tư khi thu ly vu án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy đinh cua phap luât vê tô tung dân sư , đối với bị đơn ông Mai Văn P chưa chấp hành đúng quy đinh cua phap luât vê tô tung dân sư . Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 280, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V và buộc bị đơn ông Mai Văn P hoàn trả cho nguyên đơn số tiền gốc và lãi theo hợp đồng là 26.686.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn ông Mai Văn P, nhưng không thể thực hiện được thủ tục cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho ông P được vì ông P đã bỏ địa phương đi và không thông báo cho Tòa án và nguyên đơn biết việc đã thay đổi địa chỉ nơi cư trú và địa chỉ nơi cư trú mới, căn cứ vào khoản 3 Điều 70, khoản 1 Điều 72, khoản 3 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho ông P. Bị đơn ông Mai Văn Pđã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông P.
[2] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V (sau đây gọi tắt là Công ty) thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông Mai Văn P hoàn trả cho Ngân hàng tổng số tiền gốc và lãi theo hợp đồng là 26.686.000 đồng (trong đó tiền vay gốc còn lại là 19.512.902 đồng, tiền lãi theo hợp đồng là 7.173.098 đồng). Căn cứ vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xét thấy việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Để chứng minh cho việc ông Mai Văn P có vay vốn, Công ty cung cấp cho Tòa án chứng cứ là Hợp đồng tín dụng số B 0031992 ngày 10/01/2015 (bút lục 22, 23) có chữ ký của bị đơn ông Mai Văn P ở mục bên vay, bảng kê chuyển tiền bảo hiểm (bút lục 29), lịch sử thanh toán khách hàng Mai Văn P (bút lục 31) và các giấy tờ khác có liên quan. Xét thấy, về hình thức, nội dung các văn bản này là phù hợp theo quy định pháp luật. Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông P biết nhưng ông P không có ý kiến phản đối gì. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 các tình tiết nêu trên là tình tiết không phải chứng minh trong vụ án, nên Hội đồng xét xử khẳng định ông Mai Văn P đã vay và nhận đủ của Công ty số tiền là 28.485.000 đồng. Theo lịch sử thanh toán do Công ty cung cấp thể hiện sau khi vay ông P đã trả cho Công ty được 11 lần với số tiền là 21.676.000 đồng và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xác định trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì vào ngày 17/10/2017 ông P thanh toán cho Công ty thêm số tiền 4.000.000 đồng, tổng cộng ông P đã thanh toán cho Công ty được số tiền là 25.676.000 đồng, do đó việc ông P không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm Điều 4 Mục B và Điều 1 Mục C của Hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết, ông P là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Vì vậy, việc nguyên đơn Công ty yêu cầu bị đơn ông P phải trả cho Công ty số tiền vay gốc còn lại là 19.512.902 đồng và tiền lãi là phù hợp theo quy định tại Điều 280, khoản 1 và khoản 5 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn Công ty và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số số B 0031992 ngày 10/01/2015 (bút lục 22, 23) giữa Công ty và ông Mai Văn P đã giao kết mức lãi suất là 3.75%/tháng nên ông P phải có nghĩa vụ trả lãi cho Công ty theo giao kết, tuy nhiên tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền củanguyên đơn chỉ yêu cầu ông P hoàn trả tiền lãi theo giao kết đến ngày 16/01/2018 (ngày hết hạn hợp đồng) là phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Như vậy, ông Mai Văn P phải hoàn trả cho Công ty số tiền lãi theo giao kết hợp đồng là 7.173.098 (lãi suất giảm dần theo giao kết).
Như vậy, bị đơn ông Mai Văn P có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V số tiền vay gốc còn lại là 19.512.902 đồng, tiền lãi theo hợp đồng là 7.173.098 đồng, tổng cộng là 26.686.000 đồng.
Ngoài ra, khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Mai Văn P phải trả lãi cho Công ty theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành án.
[5] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn ông Mai Văn P phải chịu 1.334.300 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 70, khoản 1 Điều 72, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, khoản 3 Điều 177, Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235, khoản 1 Điều 244, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 280, Điều 463, khoản 1 và khoản 5 Điều 466, khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468, điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V. Buộc bị đơn ông Mai Văn P có nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V số tiền vay gốc là 19.512.902 đồng (Mười chín triệu, năm trăm mười hai nghìn, chín trăm lẽ hai đồng) và tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng là 7.173.098 đồng (Bảy triệu, một trăm bảy mươi ba nghìn, không trăm chín mươi tám đồng), tổng cộng là 26.686.000 đồng (Hai mươi sáu triệu, sáu trăm tám mươi sáu nghìn đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Mai Văn P còn phải trả lãi cho Công ty theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành án.
[2] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn ông Mai Văn P phải chịu 1.334.300 đồng (Một triệu, ba trăm ba mươi bốn nghìn, ba trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho Công ty số tiền tạm ứng án phí là 1.074.207 đồng (Một triệu, không trăm bảy mươi bốn nghìn, hai trăm lẽ bảy đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0006794, ngày 10/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng.
[3] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn ông Mai Văn P vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
[4] Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 56/2017/DS-ST ngày 09/11/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 56/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về