Bản án 55/2021/HSST ngày 26/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 55/2021/HSST NGÀY 26/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2021/HSST ngày 10/3/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2021/QĐXXST – HS ngày 15/3/2021, đối với bị cáo:

Trần Quang H – Sinh năm 1995; tên gọi khác; không; giới tính: nam; Nơi ĐKHKTT: Đ. G, xã N, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; Nơi ở: P2512 tòa A, chung cư 47 N. T, phường T. T, quận T, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Phạm Thị H; vợ con chưa có; tiền án, tiền sự: không; danh chỉ bản số: 25 lập ngày 31/12/2020 tại Công an quận Thanh Xuân; bị cáo tại ngoại. Có mặt.

Người bị hại: Anh Ngô Văn S, sinh năm 1994; trú tại: P1916A, chung cư 47 N. T, phường T. T, quận T, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h ngày 16/09/2020, Trần Quang H điều khiển chiếc xe moto nhãn hiệu Honda Lead màu vàng BKS: 29T1- 508.34 mượn của bạn gái là Nguyễn Thị Lệ C đến gửi tại chung cư 47 N. T. Trên đường đi từ chỗ gửi xe đến thang máy, H đi qua khu vực để xe ô tô tại hầm B2 thì phát hiện chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Tucson BKS: 99A-27802 màu đỏ của anh Ngô Văn S đỗ tại cột P17 không gập gương chiếu hậu nên H đoán rằng chiếc xe này không khóa chốt cửa xe do đó H nảy sinh ý định vào trong xe ô tô để quay video, chụp ảnh đăng lên mạng xã hội khoe bạn bè. H đi lại gần chiếc xe dùng tay phải mở cửa xe phía trước, bên phải thì mở được. H vào xe, ngồi sang vị trí ghế lái rồi chụp một số hình ảnh trong xe và quay video. Sau đó, do biết lái xe thường để tiền và các đồ dùng nhỏ trong hộp đựng đồ phía sau cần số nên H đã mở thử thì phát hiện bên trong có một chiếc nhẫn kim loại màu vàng; 4.100.000 đồng (bốn triệu một trăm nghìn đồng, gồm 08 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng) cùng một số đồ dùng khác. H đã lấy toàn bộ số tiền 4.100.000 đồng cùng chiếc nhẫn màu vàng rồi cho vào túi đeo chéo màu đen H đang đeo trên người, rời khỏi xe đi về phòng nghỉ.

Ngày 17/9/2020, H nhận thấy hành vi trên là vi phạm pháp luật và sợ bị phát hiện nên đã H đã hai lần quay lại hầm B2 tìm chiếc xe trên để trả lại tài sản nhưng lần thì không thấy xe, lần thì xe khóa nên H không trả lại tài sản đã trộm cắp được nên H vẫn giữ lại số tài sản trộm cắp.

Khoảng 7h sáng ngày 17/9/2020, anh S đi làm phát hiện bị mất trộm số tài sản trên nên đã báo cho bảo vệ an ninh tại hầm B2 Chung cư 47 N. T. Sau khi rà soat camera an ninh, bảo vệ đã ghi nhận vụ việc Trần Quang H trộm cắp tài sản trên xe anh S và báo cho chị Nguyễn Thị Lệ C, yêu cầu H giao nộp tài sản. Khoảng 15h ngày 18/9/2020, H được chị C nhắn tin hỏi về việc H có trộm cắp tài sản gì không mà có Ban an ninh tòa nhà hỏi nên H biết sự việc trên đã bị phát hiện, H đã đến cơ quan công an đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản của mình và giao nộp lại số tài sản đã trộm cắp nêu trên.

Cơ quan công an thu giữ của Trần Quang H gồm:

- 4.100.000 đồng bao gồm 08 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000đồng.

- 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng có đường kính khoảng 02cm, mặt trong nhẫn có chữ và số: “S H 01 10 PNJ 75”.

- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X 64GB màu đen, bên trong lắp sim số 0379.969.019.

Cơ quan công an thu giữ của anh Đinh Duy L (sinh năm: 1987, trú tại: 126 T.T, B, Hà Nội), bảo vệ trông xe tại hầm B2 chung cư 47 N. T: 01 USB chứa dữ liệu camera tại tầng hầm B2 chung cư 47 N. T, T, Hà Nội ngày 16/9/2020.

Tại bản kết luận giám định số 7070/KLĐG ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Phòng giám định hóa học, Viện khoa học hình sự- Bộ công an kết luận: “01 (một) chiếc nhẫn kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ và số: “SH 02 10 PNJ 75”, có khối lượng 4,88 gam là hợp kim của vàng, bạc, đồng, kẽm; hàm lượng trung bình vàng: 75,34%; đồng: 13,11%; bạc: 10,61%; kẽm: 0,74%”.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 456/KL-HĐ ĐGTS ngày 19/11/2020 2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự- UBND quận Thanh Xuân, Hà Nội, xác định: “01 (một) chiếc nhẫn kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn có chữ và số: “SH 02 10 PNJ 75”, có khối lượng 4,88 gam là hợp kim của vàng, bạc, đồng, kẽm; hàm lượng trung bình vàng: 75,34%; đồng: 13,11%; bạc: 10,61%; kẽm: 0,74% ( nhẫn đã qua sử dụng) có giá 4.700.000 đồng”. Như vậy, Tổng giá trị tài sản H trộm cắp của anh Ngô Văn S ngày 16/9/2020 là 8.800.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Trần Quang H khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như đã nêu trên.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Thanh Xuân đã quyết định trao trả số tiền cùng chiếc nhẫn trên cho anh Ngô Văn S. Anh S đã nhận lại tài sản và xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Trần Quang H, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X 64GB màu đen, bên trong lắp sim số 0379.969.019 thu giữ của Trần Quang H là tài sản của H, không liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản nêu trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Xuân đã trả lại cho H.

Tại bản cáo trạng số 42/CT – VKSTX ngày 04/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân truy tố Trần Quang H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố Trần Quang H về tội Trộm cắp tài sản, sau khi phân tích đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Quang H từ 9 tháng tù đến 11 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 18 tháng đến 22 tháng; giao bị cáo cho UBND phường T. T, quận T, Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo;

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến bào chữa và cũng không tranh luận với bản luận tội và kết tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Trần Quang H khai nhận nội dung bản cáo trạng mà vị đại diện Viện kiểm sát đã công bố là đúng. Qua xét hỏi và tranh luận bị cáo khai nhận khoảng 21h30’ giờ ngày 16/9/2020 lợi dụng sự sơ hở trong việc trông coi quản lý tài sản của chủ sở hữu, Trần Quang H đã thực hiện hành vi trộm cắp số tiền 4.100.000 đồng và 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng có đường kính khoảng 02cm, mặt trong nhẫn có chữ và số: “S H 01 10 PNJ 75” có giá trị 4.700.000 đồng tại chiếc xe ô tô Huyndai Tucson BKS: 99A-27802 màu đỏ của anh Ngô Văn S gửi tại hầm B2, chung cư 47 N. T, quận T, Hà Nội.

Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung trình báo, lời khai của người bị hại và tang vật của vụ án mà bị cáo chiếm đoạt. Hành vi phạm tội của bị cáo và giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt đã đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Quang H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chẳng những xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, vì tham lam tư lợi muốn có tiền để tiêu sài bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản của người khác, nên việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết và cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng đảm bảo công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã ra đầu thú tại Công an, bị cáo tự nguyện giao nộp lại tài sản để trao trả cho bị hại, người bị hại đã nhận lại tài sản và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo H có nơi cư trú rõ ràng nên xét không cần thiết phải cách ly cỏc bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng cho bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định một thời gian thử thách, giao bị cáo về nơi cư trú quản lý giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập.Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự : người bị hại là anh Ngô Văn S đã nhận lại tài sản, và không có yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Quang H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng: - Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

- Các Điều 136; 298; 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt : Bị cáo Trần Quang H 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/3/2021).

Giao bị cáo Trần Quang H cho UBND phường T. T, quận T, thành phố Hà Nội nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về án phí : Bị cáo Trần Quang H phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo Trần Quang H có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người bị hại anh Ngô Văn S vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2021/HSST ngày 26/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:55/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về