Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 16/07/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 55/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 16/07/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án Hôn nhân gia đình sơ thẩm, thụ lý số: 81/2021/TLST-HNGĐ ngày 08/02/2021 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/QĐST-HNGĐ ngày 08/06/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1989

Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1983 Cùng nơi cư trú: Tổ 13, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ( Chị N có mặt, anh C vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai tại phiên toà chị N trình bày: Chị kết hôn cùng anh Nguyễn Mạnh C có đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường Quán T, thành phố Thái Nguyên vào ngày 16/04/2008 trên cơ sở tự nguyện. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh C không chịu tu chí làm ăn, kinh tế vợ chồng luôn độc lập, không có sự bàn bạc chia sẻ với nhau. Hiện tại vợ chồng đã sống ly thân, chị N đưa con về bên ngoại sinh sống, trong thời gian này anh C không hề liên lạc với chị N và thăm nom, chăm sóc con. Đến nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đã ở mức trầm trọng xin được ly hôn với anh C để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Nguyễn Thảo M, sinh ngày 11/08/2008 và Nguyễn Thảo Anh, sinh ngày 01/04/2014, hiện các con đang được chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôicon: Chị N yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi mỗi con là 1.000.000đồng/tháng (một triệu đồng) tới khi con đủ 18 tuổi.

1 Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh C không hợp tác, Tòa án xác minh tại địa phương được biết hiện anh C có ở địa phương sống cùng bố mẹ đẻ do đi làm ăn nên thường xuyên vắng nhà. Do anh C không đến Tòa nên không viết bản tự khai cũng như không tham gia phiên họp công bố tài liệu công khai chứng cứ và hòa giải tại tòa, vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được, vì vậy vụ kiện phải đưa ra xét xử công khai tại phiên tòa ngày hôm nay.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng:

- Việc tiếp nhận đơn của Tòa án, việc thụ lý đơn khởi kiện và quá trình giải quyết của Hội đồng xét xử và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của BLTTDS;

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng; bị đơn không thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 72 BLTTDS.

2. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35,39, 147, 227; 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị N, cho chị N được ly hôn với anh C.

Về con chung: Giao 02 con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi là 1.000.000đ/ tháng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; anh C phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án ly hôn căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Bị đơn anh C có nơi cư trú tại thành phố Thái Nguyên, căn cứ vào điểm a khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.

Tại phiên tòa bị đơn – anh C vắng mặt - Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa lần thứ hai nhưng anh C vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh C.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Mạnh C có đăng ký kết hôn với nhau năm năm 2008, có đăng ký tại UBND phường Quán T, thành phố Thái Nguyên đủ điều kiện được công nhận hôn nhân hợp pháp.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm sống nên rạn nứt về tình cảm, Chị N đã về nhà ngoại ở từ tháng 9/2020, cả hai bên không hề quan tâm, liên lạc đến nhau nữa. Từ khi chị N có đơn ly hôn tại Tòa anh C, chị N đều không có biện pháp gì để cải thiện tình cảm vợ chồng. Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã ở mức trầm trọng xin được ly hôn. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc, vì vậy chấp nhận đơn ly hôn của chị Phạm Thị N cho chị N được ly hôn với anh Nguyễn Mạnh C như vậy là phù hợp với thực tế và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Nguyễn Thảo M, sinh ngày 11/08/2008 và Nguyễn Thảo Anh, sinh ngày 01/04/2014. Chị N có nguyện vọng được nuôi 02 con, anh C trong quá trình Tòa án giải quyết luôn vắng mặt không thể hiện quan điểm. Xét thấy, cần đảm bảo sự phát triển ổn định tâm sinh lý của trẻ nhỏ trên cơ sở nguyện vọng của hai con là được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và điều kiện chăm sóc, giáo dục của chị N khi ly hôn giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác như vậy là phù hợp với thực tế và Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy yêu cầu của chị N về cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn phù hợp với thực tế và quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên cần buộc anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con là 1.000.000đồng/tháng (một triệu đồng) tới khi con đủ 18 tuổi hoặc tới khi có sự thay đổi khác.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Do chị N không có yêu cầu nên Tòa án không giải quyết, nếu các đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[5]. Về án phí: chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; anh C phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 146, 147, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228, 483 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2017.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị N, cho chị N được ly hôn anh Nguyễn Mạnh C.

2. Về con chung: Giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, căm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Thảo M, sinh ngày 11/08/2008 và Nguyễn Thảo A, sinh ngày 01/04/2014 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh C có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con chung là 1.000.000đồng (một triệu đồng)/tháng tới khi con đủ 18 tuổi hoặc tới khi có sự thay đổi khác. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án chậm thi hành án thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Do chị N không có yêu cầu nên Tòa án không giải quyết, nếu các đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước, được chuyển từ tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số 0004623 ngày 08/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Anh Nguyễn Mạnh C phải chịu 300.000đồng án phí cấp dưỡng nuôi con nộp ngân sách nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự biết trong hạn 15 ngày, chị N được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày tuyên án; anh C được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 16/07/2021 về ly hôn

Số hiệu:55/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về