Bản án 55/2020/HS-ST ngày 17/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

 BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 17/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2020/TLST- HS ngày 25 tháng 5 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 85/2020/QĐXXST-HS ngày 03/6/2020 đối với bị cáo:

TRẦN NGUYỄN DUY K (tên gọi khác: N) – sinh năm 1994, tại tỉnh B; Nơi cư trú: khu phố 6, phường M, thành phố P, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê (thợ hồ); trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Tr- sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị L - sinh năm 1973; Chưa có vợ con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Nhật T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Khu phố 10, phường M, thành phố P, tỉnh B (vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn D sinh năm 1985; nơi cư trú: Khu phố 10, phường M, thành phố P, tỉnh B (vắng mặt).

2. Bà Tạ Thị T 1 – sinh năm 1990; nơi cư trú: Khu phố 10, phường M, thành phố P, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 16/01/2020 bị cáo Trần Nguyễn Duy K đi bộ quanh khu vực phường M, thành phố P với mục đích để trộm cắp tài sản. Khi đi đến trước nhà ông Nguyễn Nhật T, thuộc khu phố 10, phường M, thành phố P, Trần Nguyễn Duy K quan sát thấy trong nhà ông T còn để điện sáng và cửa không khóa nên đã đột nhập vào nhà ông T để tìm tài sản trộm cắp. Khi vào bên trong nhà, K thấy có chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime đang cắm sạc pin để trên chiếc nệm trong phòng ngủ nhà ông T. Trần Nguyễn Duy K lén lút tiếp cận rồi cầm điện thoại lên rút dây sạc đang định bỏ vào túi quần thì bị vợ chồng ông Nguyễn Nhật T, bà Tạ Thị T1 phát hiện, truy hô. Khi nghe ông T truy hô “Trộm, trộm” thì ông Nguyễn D là hàng xóm của ông T đã cùng ông T bắt giữ Trần Nguyễn Duy K cùng tang vật đưa lên Công an phường M, thành phố P trình báo. Công an phường M đã lập biên bản bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 00 giờ 50 phút ngày 16/01/2020.

Tang vật của vụ án: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime màu vàng đồng có số số IMEI 1: 355229083216XXX; IMEI 2: 355228083216XXX;

Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐG ngày 21/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime – số IMEI 1: 355229083216XXX – số IMEI 2: 355228083216XXX, giá trị tài sản là 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng.

Qúa trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra –Công an thành phố P đã xử lý vật chứng, trả lại chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime màu vàng đồng trên cho chủ sở hữu, ông Nguyễn Nhật T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường về dân sự đối với bị cáo Trần Nguyễn Duy K.

Tại bản cáo trạng số 68/CT-VKSPT ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố đối với bị cáo Trần Nguyễn Duy K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173, Điều 15 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt vì bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt; áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự vì bị cáo Trần Nguyễn Duy K phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo Trần Nguyễn Duy K đã thành khẩn khai báo và bị hại Nguyễn Nhật T có đơn xin bãi nại đối với bị cáo, trong đơn xin xét xử vắng mặt bị hại Nguyễn Nhật T xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Trần Nguyễn Duy K từ 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa, không tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo nhận thấy bị cáo đã sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng, không oan. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận: Trần Nguyễn Duy K là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Thế nhưng, vì muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài phục vụ cho nhu cầu cá nhân nên bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, khoảng 00 giờ 20 phút ngày 16/01/2020, tại khu phố 10, phường Mũi Né, thành phố Phan Thiết, tỉnh B, Trần Nguyễn Duy K đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime trị giá 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng của bị hại Nguyễn Nhật T thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nêu trên của bị cáo Trần Nguyễn Duy K là hành vi cố ý, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, hơn nữa còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi vừa nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng số 68/CT-VKSPT ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, nhận định của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P cho rằng bị cáo Trần Nguyễn Duy K phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt là không có cơ sở. Bởi lẽ, chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime bị cáo lén lút chiếm đoạt, bị hại Nguyễn Nhật T để trên chiếc nệm trong phòng ngủ của gia đình bị hại và đang cắm sạc pin, bị cáo đã lén lút tiếp cận và cầm điện thoại lên tay, dịch chuyển chiếc điện thoải khỏi vị trí ban đầu, bị cáo đang rút dây sạc điện thoại khỏi vị trí đang sạc, đang chuẩn bị cất giữ điện thoại vào túi quần thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi này của bị cáo đã cấu thành tội phạm, việc bị cáo bị phát hiện và bị bắt giữ là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo, hành vi của bị cáo không thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 của Bộ luật hình sự. Do bị cáo Trần Nguyễn Duy K phạm tội không thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nên Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề xuất của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy là hợp lý vì quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo đầy đủ thể hiện sự thành khẩn; trước khi bị khởi tố về tội này bị cáo chưa từng bị xét xử về tội phạm khác, tội phạm do bị cáo thực hiện có khung hình phạt đến 03 năm tù, là tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại Trần Nhật T có đơn xin bãi nại cho bị cáo đồng thời trong đơn xin xét xử vắng mặt bị hại Nguyễn Nhật Tảo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội với mức hình phạt không quá 03 năm, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, theo lý lịch thể hiện bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; việc không buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù cũng đủ giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội nên Hội đồng xét xử cân nhắc áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự để tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của của chính quyền địa phương.

[4]Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản xong, không có yêu cầu bồi thường nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thọai di động hiệu Samsung J7 Prime cho bị hại Nguyễn Nhật T là đúng theo quy định pháp luật.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Nguyễn Duy K phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo Trần Nguyễn Duy K 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách: 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 17/6/2020.

Giao bị cáo Trần Nguyễn Duy K cho Ủy ban nhân dân phường M, thành phố P, tỉnh B giám sát, giáo dục. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Nguyễn Duy K phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 55/2020/HS-ST ngày 17/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:55/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về