Bản án 55/2020/HSST ngày 03/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 55/2020/HSST NGÀY 03/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 65/2018/HSST ngày 08 tháng 7 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/ QĐXXST – HS ngày 15 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Quốc D, sinh năm 1986 Nơi cư trú: Thôn B, xã B1, huyện B2, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Lê Thị X; bị cáo có vợ và 01 người con sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/10/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xử phạt 07 năm tù về Tội mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và án phí.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2020 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ 40 phút ngày 21/4/2020, Công an huyện Bù Đăng phối hợp với Công an xã B tiến hành kiểm tra hành chính đối với Lê Quốc D. Lúc này, D ném 01 hộp hiệu “mentos” xuống đất bên lề trái đường ĐT760 thì bị tổ công tác phát hiện. Tiến hành kiểm tra bên trong có 05 gói nylon và 01 gói giấy bạc bên trong đều chứa chất màu trắng (nghi là ma túy) nên đã lập biên bản phạm tội quả tang đối với D và thu giữ số ma túy.

Quá trình điều tra, D khai nhận, số ma túy mà công an thu giữ là D mua của một người đàn ông tên Vinh (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực “Làng Mông” thuộc xã Đăk Ngo, huyện Tuy đức, tỉnh Đăk Nông với giá 500.000 đồng. Mục đích D mua về để cất giấu sử dụng.

Căn cứ Kết luận giám định số 90/2020/GĐMT ngày 28/04/2020, của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước xác định số chất rắn màu trắng có trong 05 gói nylon và 01 gói giấy bạc (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng 0,4210 gam.

Vật chứng vụ án: Số ma túy còn lại sau giám định là 0,3423 gam; 01 xe máy (loại lắp ráp DH88), màu sơn: Đỏ-Xanh, biển kiểm soát 61FD-XXXX, số máy 1099XXX. Cơ quan CSĐT – Công an huyện Bù Đăng chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng để phục vụ công tác truy tố, xét xử.

Tại Cáo trạng số 69/CT –VKS ngày 08/7/2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Lê Quốc D về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Quốc D phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; về hình phạt, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Quốc D từ 15 đến 18 tháng tù Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Lê Quốc D thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 6 giờ ngày 21/04/2020, Lê Quốc D đến khu vực “Làng Mông” thuộc xã Đăk Ngo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông mua 500.000 đồng ma túy, loại heroin, của một người đàn ông tên Vinh (không rõ nhân thân, lai lịch), rồi bỏ tất cả số ma túy vừa mua vào một cái hộp có dòng chữ “mentos” mang về sử dụng. Khi D điều khiển xe mô tô về đến thôn B, xã B, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước thì bị Công an huyện Bù Đăng bắt quả tang người và thu giữ tang vật.

Qua giám định chất màu trắng đựng trong 05 gói nylon và 01 gói giấy bạc là ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,4210 gam.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Lê Quốc D đã phạm vào Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. “Người nào tàng trữ chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

a) ……………………………………………

c) “Hêrôin, …, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Như vậy, nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do lối sống buông thả dẫn đến nghiện ma túy, mặc dù bị cáo nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý phạm tội. Bản thân bị cáo đã từng có tiền án về Tội mua bán trái phép chất ma túy, mặc dù đã được xóa án tích nhưng vẫn bị coi là có nhân thân không tốt.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bản thân bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo HIV/AIDS đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ, hiện đang mắc bệnh hiểm nghèo (HIV/AIDS) nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định là 0,3423 gam.

Cần tịch thu sung công quỹ 01 xe máy (loại lắp ráp), màu sơn: Đỏ-Xanh, biển kiểm soát 61FD-0567, số máy 1099871 bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đối với người đàn ông tên “Vinh” bán ma túy cho D tại khu vực “Làng Mông”, thuộc xã Đăk Ngo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Lê Quốc D phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Quốc D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2020.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 90 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước.

Tuyên tịch thu sung công quỹ xe máy loại lắp ráp màu đỏ, xanh, biển số 61FD-0567, số máy 1099871.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009794 ngày 30/6/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bù Đăng với Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Quốc D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 55/2020/HSST ngày 03/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:55/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về