TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 55/2019/HSST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại Toà án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự đã thụ lý số: 44/2019/HSST ngày 06.3.2019 đối với các bị cáo :
1. NGUYỄN VĂN T - sinh năm: 1992, Tại: Thành phố Z; Thường trú: A201 tổ 15A, khu phố 2, phường X, Quận Y, Tp.Z; Nghề nghiệp: không có; Trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị Lệ T; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con;.
Tiền án: Ngày 10.8.2017 bị Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 151/2017/HSST ngày 10.8.2017.
Tiền sự: Ngày 20.9.2018 bị Tòa án nhân dân quận 12 áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 18 tháng, chưa chấp hành.
Nhân thân: Ngày 21.3.2008 bị Ủy ban nhân dân quận 12 quyết định đưa vào TGD, CSGD 24 tháng theo quyết định số 210/QĐUB ngày 21.3.2008.
- Ngày 14.01.2016 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian chấp hành là 15 tháng.
Bị cáo bị bắt ngày 23.11.2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. LA MINH T- sinh năm: 1994, Tại: An Giang; Thường trú: ấp Khánh Mỹ, xã E, huyện F, tỉnh H; Nghề nghiệp: không có; Trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông La Văn T và bà Đặng Cẩm L; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con.
Nhân thân: Ngày 14.4.2015 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 85/2015/HSST ngày 14.4.2015.
Tiền sự: Ngày 07.6.2016 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian chấp hành là 24 tháng.
Bị cáo bị bắt ngày 23.11.2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Ông Nguyễn Hữu S – sinh năm: 2000 (vắng mặt)
Địa chỉ: 17/5M ấp Tam Đông, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, TP.HCM.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 10 phút ngày 23.11.2018 Nguyễn Văn T, La Minh T cùng có mặt tại phòng trọ số 46/2A ấp Thới Tứ 2, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn của Nguyễn Hải H. Sau đó T mượn xe của H chở T về nhà, do T đã có ý định trộm cắp tài sản nên trên đường đi đưa cho T giữ 01 số công cụ dùng để bẻ khóa trộm xe máy.
Lúc này T phát hiện trước nhà không số tổ 28 ấp Thới Tứ 2 có xe gắn máy biển số 59Y1-142.91 của ông Nguyễn Hữu S có sẵn chìa khóa không người trông giữ nên dừng xe kêu T vào trong lấy trộm xe, T xuống xe lén lút đến gần xe bật công tắc nổ máy tẩu thoát còn T định tẩu thoát theo nhưng bị người dân phát hiện truy hô bắt quả tang. Sau khi trộm được xe T biết T đã bị bắt nên điều khiển xe đến trước số 1/118 khu phố 7, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn để xe này ở đó rồi gọi điện thoại Huy đến đón về, kể cho H nghe sự việc, T nhắn cho H địa chỉ để xe máy trộm cắp. Qua truy xét bắt khẩn cấp T cùng vật chứng.
Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 245 ngày 29.11.2018 kết luận: 01 xe mô tô hiệu Wave RS trị giá 9.000.000 đồng.
Qua điều tra các bị can khai nhận hành vi phạm tôi, lời khai của các bị can phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai bị hại, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Đối với Nguyễn Hải H, qua xác minh hiện không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm làm rõ xử lý sau.
Đối với xe mô tô biển số 59S2-057.44 là phương tiện gây án qua xác minh số khung số máy là xe có biển số 62X2-2588 do ông Đặng Văn H đứng tên chủ sở hữu, ông H khai xe đã bị mất tại Phường 7, quận Phú Nhuận vào tháng 11.2018. Cơ quan điều tra đã thông báo cho Công an Quận Phú nhuận để giải quyết theo thẩm quyền. Qua xác minh biển số xe 59S2-057.44 là xe máy hiệu Yamaha Nouvo do bà Lê Nguyễn Thanh V đứng tên, hiện bà không có mặt tại địa phương, chưa làm việc được.
Về dân sự: bị hại nhận lại tài sản không yêu cầu.
Tại bản cáo trạng số 45/CT-VKS-HS ngày 05.3.2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn thì Nguyễn Văn T, La Minh T bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đối với vụ án đã đề nghị xử phạt: Nguyễn Văn T mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù. La Minh T mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về xử lý vật chứng:
- 01 thanh kim loại chữ L, màu trắng bạc dùng để mở khóa từ; 01 thanh kim loại dài 03cm màu vàng, 02 đầu hình vuông dùng để mở khóa từ; 02 thanh kim loại dài khoảng 06cm đã được mài dũa; 01 thanh kim loại màu trắng hình chữ Z, 02 đầu được mài dẹp; 01 thanh kim loại dẹp một đầu, có cán được bọc nhựa đen; 01 biển số 59S2-057.44 đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (Model 106.1); 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen (số IMEI: 359252420123386) đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, đề nghị miễn phạt cho các bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu thu thập được trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo cũng không có ý kiến, khiếu nại đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng.
[2] Về trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án:
Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Văn T, La Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với kết luận điều tra của Công an huyện Hóc Môn, với bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với điều luật tương ứng do Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Văn T, La Minh T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.
Trong vụ án này, các bị cáo Nguyễn Văn T, La Minh T đã có hành vi lén lút lấy trộm một chiếc xe mô tô biển số 59Y1-142.91 trị giá 9.000.000 đồng của bị hại, đây là vụ án có đồng phạm, nhưng không có bàn bạc phân công chuẩn bị trước nên thuộc trường hợp giản đơn, trong đó vai trò của bị cáo T là người rủ rê và cảnh giới, còn bị cáo T trực tiếp thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính nên đã thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra và bất chấp cả sự trừng trị của pháp luật.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:
Bị cáo T có nhân thân xấu: Ngày 21.3.2008 bị Ủy ban nhân dân quận 12 quyết định đưa vào TGD, CSGD 24 tháng theo quyết định số 210/QĐUB ngày 21.3.2008, ngày 14.01.2016 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian chấp hành là 15 tháng, ngày 20.9.2018 bị Tòa án nhân dân quận 12 áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 18 tháng, chưa chấp hành. Bị cáo T có 01 tiền án về tội „„Trộm cắp tài sản‟‟ chưa được xóa án tích lại tiệp tục phạm tội thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật và lần phạm tội này của bị cáo là thuộc trường hợp tái phạm đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Đối với bị cáo T có nhân thân xấu: Ngày 14.4.2015 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 85/2015/HSST ngày 14.4.2015, ngày 07.6.2016 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian chấp hành là 24 tháng.
Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm tạo điều kiện cho các bị cáo phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này, biết tôn trọng pháp luật, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như các bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Qua diễn biến tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thật thà khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.
[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên miễn phạt cho các bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay người bị hại là anh Nguyễn Hữu S vắng mặt nhưng căn cứ vào hồ sơ vụ án, xét thấy anh S đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 thanh kim loại chữ L, màu trắng bạc dùng để mở khóa từ; 01 thanh kim loại dài 03cm màu vàng, 02 đầu hình vuông dùng để mở khóa từ; 02 thanh kim loại dài khoảng 06cm đã được mài dũa; 01 thanh kim loại màu trắng hình chữ Z, 02 đầu được mài dẹp; 01 thanh kim loại dẹp một đầu, có cán được bọc nhựa đen là công cụ phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 biển số 59S2-057.44 không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (Model 106.1) của bị cáo La Minh T dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen (số IMEI: 359252420123386) của bị cáo Nguyễn Văn T dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T, La Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt:
- Nguyễn Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 23.11.2018.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt :
- La Minh T 01 (một) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 23.11.2018.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy: 01 thanh kim loại chữ L, màu trắng bạc dùng để mở khóa từ; 01 thanh kim loại dài 03cm màu vàng, 02 đầu hình vuông dùng để mở khóa từ; 02 thanh kim loại dài khoảng 06cm đã được mài dũa; 01 thanh kim loại màu trắng hình chữ Z, 02 đầu được mài dẹp; 01 thanh kim loại dẹp một đầu, có cán được bọc nhựa đen; 01 biển số 59S2-057.44.
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (Model 106.1) và 01 điện thoại di động hiệu Mobistar màu đen (số IMEI: 359252420123386).
(Theo Phiếu nhập kho vât chứng số 45/PNK ngày 18.02.2019 của Công an huyện Hóc Môn).
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.
Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 55/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 55/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về