TOÀ ÁN NHÂN DÂN H. HÒA VANG - TP. ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 55/2019/HS-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 11.10.2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2019/TLST - HS ngày 28 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HS ngày 26.9.2019 đối với bị cáo:
Lê Văn T - Sinh ngày 19/5/1982 tại Đà Nẵng.
Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo:
không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn S và bà Ngô Thị D (cả hai đều đã chết);
Tiền án, tiền sự: Không ;
Nhân thân:
- Tháng 5/2003 bị Công an huyện Hòa Vang bắt đi Ttrung giáo dục 18 tháng tại Hoàn Cát, Quảng Trị;
- Tháng 7/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong bản án ngày 27.03.2008.
Bị cáo bị bắt tạm giam theo lệnh truy nã từ ngày 05.7.2019, có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác:
- Người bị hại: Anh Đặng Xuân Đ, sinh năm 1999; Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đặng Xuân L, sinh ngày 08.01.2006;
Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)
Người giám hộ cho Đặng Xuân L: ông Đặng Văn H, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1974;
Cùng nơi cư trú: Thôn Thôn V, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng - Là cha ruột và mẹ ruột.
- Người làm chứng:
+ Ông Nguyễn D, sinh năm 1932; Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)
+ Ông Đặng Văn H, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1974; Cùng nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ 45 phút ngày 28/4/2019, Lê Văn T đi bộ sang nhà anh Đặng Văn H tại thôn V, xã H, huyện H, tp Đà Nẵng, để mượn tiền. Tại đây, T nói anh H cho T mượn tiền nhưng anh H không có tiền cho mượn. Vì không mượn được tiền, T dùng lời lẽ xúc phạm anh H nên bị anh H đuổi ra khỏi nhà. Bị đuổi nên T liền dùng tay phải đánh một cái trúng vào mặt anh H. Lúc này, anh Đặng Xuân Đ ở nhà dưới chạy lên hỏi T “Sao ông đánh ba tôi”, Đ thời xông vào định đánh T thì được anh H và chị Nguyễn Thị Ngọc H căn ngăn, kéo, đẩy T và Đ ra khỏi nhau làm T ngã xuống nền nhà. Đ tiếp tục xông đến thì T vùng dậy, dùng tay phải rút một con dao bấm bằng kim loại dài 15 cm từ trong túi quần ra đâm từ ngoài vào trong trúng vào ngực bên phải của Đ. T tiếp tục đâm nhát thứ hai trúng vào cánh tay trái của Đ thì Đ dùng sức đẩy T ngã xuống nền nhà, T tiếp tục dùng dao đưa qua đưa lại la hét, không cho ai xông vào. Thấy vậy Đặng Xuân L từ trong nhà chạy ra dùng vỏ chai thủy tinh ném vào người T nhưng không trúng. Cùng lúc này, người dân xung quanh nhà anh H chạy đến can ngăn kéo T ra khỏi nhà anh H, còn anh Đ được gia đình đưa đi cấp cứu tại bệnh viện.
Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 151/TgT ngày 05/6/2019 của Trung tâm giám định pháp y TP. Đà Nẵng kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể anh Đặng Xuân Đ do thương tích gây nên là 07%.
Ngày 07.6.2019, anh Đặng Xuân Đ có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, có xác nhận của Công an xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, tp Đà Nẵng.
Tang vật tạm giữ:
- 01 con dao bấm được làm bằng kim loại dài 15 cm .
- Một số mảnh vỡ thủy tinh.
Bản cáo trạng số 53/CT-VKSNDHV ngày 27.8.2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang truy tố bị cáo Lê Văn Tvề tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa trình bày luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Tập, xử phạt bị cáo Ttừ 12 tháng tù đến 15 tháng tù; Đồng thời Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng như sau: tịch thu tiêu hủy con dao bấm được làm bằng kim loại dài 15 cm và một số mảnh vỡ thủy tinh. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị HĐXX căn cứ Điều 584, 590 của Bộ luật dân sự buộc Lê Văn Ttiếp tục bồi thường cho Đặng Xuân Đtheo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thu thập đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Vang, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, Điều tra viên cũng như Kiểm sát viên đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp được chấp nhận để làm cơ sở giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo T đã khai nhận toàn bộ diễn biến sự việc xảy ra vào ngày 28.4.2019 tại nhà ông H thuộc thôn V xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng giữa bị cáo và Đặng Xuân Đ, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được. Hội đồng xét xử đủ cơ sở để xác định: Vào ngày 28.4.2019, Lê Văn T đã có hành vi dùng dao đâm Đặng Xuân Đ gây thương tích. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra đối với Đặng Xuân Đ là 07%, và người bị hại Đặng Xuân Đ đã có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Hành vi của bị cáo T đã cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 53/CT- VKSNDHV ngày 27.8.2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất của vụ án cũng như mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, Hội đồng xét xử thấy rằng: Xuất phát từ việc T mượn tiền của ông H(là cha ruột của Đặng Xuân Đ) nhưng ông H không cho, T đã vô cớ dùng tay đánh ông H, Đặng Xuân Đ thấy vậy xông đến giằng co với T thì được ông H và bà H can ngăn, kéo và đẩy T ra khỏi nhà thì T bị té xuống nền nhà, Đ tiếp tục xông đến thì T đứng dậy rút dao đâm Đ liên tiếp 02 nhát gây thương tích. Giữa bị cáo và Đặng Xuân Đ hoàn toàn không có mâu thuẫn gì nhưng vì mượn không được tiền, trong lúc giằng co thì bị cáo lại đâm Đ một cách vô cớ. Hành vi của bị cáo là có tính chất côn đồ. Con dao là hung khí nguy hiểm nhưng bị cáo vẫn sử dụng để đâm Đ gây thương tích 07%. Người bị hại Đặng Xuân Đ đã có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ thương tật dưới 11%, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Hành vi của các bị cáo xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Bản thân bị cáo có nhân thân không tốt, trong quá trình điều tra thì bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã, xét thấy cần thiết phải xét xử bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội. Cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo rèn luyện trở thành công dân tốt sau này.
[4] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền 1.000.000đ. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, HĐXX áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại với số tiền 1.000.000đ, tại phiên tòa Đ ý tiếp tục bồi thường số tiền là 10.318.757đ theo yêu cầu của người bị hại nên HĐXX buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho ông Đặng Xuân Đ số tiền 10.318.757đ.
[6] Đối với Đặng Xuân L có hành vi dùng vỏ chai ném vào người T, bản thân T bị trày xước nhẹ và từ chối giám định, không có yêu cầu gì. Tại thời điểm xảy ra sự việc L chưa đủ 14 tuổi nên Cơ quan Công an không đề cập xử lý là có cơ sở.
[7] Lê Văn T khai Đặng Xuân Đ đánh nhiều cái vào người T, nhưng Đ không thừa nhận, nhân chứng cũng không thấy Đ đánh Tập, T không bị thương tích và không có yêu cầu, Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở nên HĐXX không xem xét.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 con dao bấm được làm bằng kim loại dài 15 cm là công cụ phạm tội và một số mảnh vỡ thủy tinh, HĐXX áp dụng Điều 106 BLTTHS tuyên tịch thu tiêu hủy.
[9] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000đ.
[10] Án phí dân sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 515.937đ (10.318.757đ x 5% = 515.937đ)].
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội "Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 05.7.2019.
Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 590 của Bộ luật dân sự.
Tuyên: Buộc bị cáo Lê Văn T bồi thường cho ông Đặng Xuân Đ số tiền 10.318.757đ (Mười triệu ba trăm mười tám nghìn bảy trăm năm mươi bảy Đ).
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bấm được làm bằng kim loại dài 15 cm là công cụ phạm tội và một số mảnh vỡ thủy tinh.
Vật chứng hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27.8.2019.
Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu 200.000đ.
Án phí dân sự sơ thẩm: Lê Văn T phải chịu là 515.937đ.
Án xử công khai, bị cáo và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 55/2019/HS-ST ngày 11/10/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 55/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về