Bản án 546/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 546/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 17 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 745/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 88/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Tố L, sinh năm: 1978 Địa chỉ thường trú: đường H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt theo đơn đề nghị giải quyết vắng mặt đề ngày 06/8/2020)

Bị đơn: Ông Triệu Vĩnh H, sinh năm: 1972 Địa chỉ thường trú: đường H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 02/10/2019, tại bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Trần Tố L trình bày: bà và ông Triệu Vĩnh H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2015 có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 111, quyển số 01/2015, đăng ký ngày 02/12/2015 tại UBND Phường A, Quận A, TP. Hồ Chí Minh.

Theo lời trình bày của bà Trần Tố L thì từ sau khi kết hôn không lâu, vợ chồng bà đã bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông H không có trách nhiệm, không lo được kinh tế cho gia đình mà còn ỷ lại vào vợ, không lo làm ăn, không lo được chỗ ở cho vợ. Do mâu thuẫn trầm trọng nên cuối năm 2017, bà L trở về nhà mẹ ruột của bà sinh sống, thời gian này ông H có qua lại nhưng tính tình vẫn như cũ. Bà L đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông H vẫn không thay đổi nên từ tháng 8/2018 ông bà đã chính thức không còn qua lại với nhau cho đến nay, cả hai đều có cuộc sống riêng, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa.

Nay bà L xác định vợ chồng bà đã không còn tình cảm với nhau nữa, cuộc sống hôn nhân của ông bà không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: bà Trần Tố L yêu cầu ly hôn với ông Triệu Vĩnh H.

- Về con chung: bà L trình bày trong thời gian chung sống, ông bà không có con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: bà L khai không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn là ông Triệu Vĩnh H đến Tòa án để trình bày ý kiến, tham gia tố tụng nhưng ông H không đến Tòa làm việc, cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình, vì vậy, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông H.

Tại phiên tòa ngày 27/8/2020 và ngày 17/9/2020, ông H vắng mặt không rõ lý do. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh nơi cư trú của ông Triệu Vĩnh H, xác minh tình trạng hôn nhân của bà L và ông H tại địa phương nơi ông H và bà L sinh sống.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Tòa án cũng đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho bị đơn. Việc đưa vụ án ra xét xử đúng theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, cho bà L được ly hôn với ông H; Về con chung, tài sản chung và nợ chung:

bà L khai không có nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết:

Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 111, quyển số 01/2015, đăng ký ngày 02/12/2015 tại UBND Phường A, Quận A, TP. Hồ Chí Minh thì bà Trần Tố L và ông Triệu Vĩnh H có mối quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà L có đơn xin ly hôn với ông H cư ngụ tại Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh nên Tòa án nhân dân Quận 6 thụ lý và giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về yêu cầu của đương sự:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Theo như lời trình bày của bà L thì nguyên nhân ông bà phát sinh mâu thuẫn là do ông H không có trách nhiệm với gia đình, không lo làm ăn, ỷ lại vào vợ, không lo được cuộc sống cho bà. Ông bà cũng đã không còn sống chung, không còn qua lại với nhau cho đến nay, cả hai đều có cuộc sống riêng, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Bà L xác định vợ chồng bà đã không còn tình cảm với nhau, cuộc sống hôn nhân của ông bà không hạnh phúc nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông H.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn là ông Triệu Vĩnh H đến Tòa để ghi nhận ý kiến của ông H và tham gia tố tụng nhưng ông H không đến Tòa làm việc nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông H. Tòa án cũng đã triệu tập ông H đến Tòa để hòa giải và tham gia phiên Tòa nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do.

Hội đồng xét xử xét thấy, Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình…” nhưng theo lời trình bày của bà L thì giữa bà L và ông H đã không còn sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; bà L xác định không còn tình cảm với ông H, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc; Tòa án đã nhiều lần triệu tập cả ông H và bà L đến Tòa làm việc, tạo điều kiện để ông bà có thể hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng ông H không đến Tòa làm việc, điều này thể hiện thái độ thờ ơ, không quan tâm của ông H đối với việc hàn gắn tình cảm, cùng nhau hòa giải để tiếp tục mối quan hệ hôn nhân này. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà L và ông H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định cho bà L được ly hôn với ông H là phù hợp theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung:

Theo lời trình bày của bà L thì trong quá trình chung sống, bà L và ông H không có con chung nên không đề cập giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà L khai không có nên không đề cập giải quyết.

[3] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) do bà Trần Tố L nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phí, lệ phí Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Tố L được ly hôn với ông Triệu Vĩnh H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 111, quyển số 01/2015, đăng ký ngày 02/12/2015 tại UBND Phường A, Quận A, TP. Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Bà L khai trong quá trình chung sống, bà L và ông H không có con chung nên không đề cập giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: bà L khai không có nên không đề cập giải quyết.

4. Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) do bà Trần Tố L nộp được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà L đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011722 ngày 03/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6. Bà L đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân được quyền kháng nghị theo quy định.

6. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 546/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:546/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về