Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn giữa anh Y và chị A

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 54/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ LY HÔN GIỮA ANH Y VÀ CHỊ A

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2021/TLST-HNGĐ, ngày 10 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30 /2021/QĐXX-ST, ngày 16 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Như Y, sinh năm 1972.

Địa chỉ cư trú: Xóm Q, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt).

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Á, sinh năm 1975.

Địa chỉ cư trú: Xóm Q, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và qua các lời khai, nguyên đơn anh Nguyễn Như Y trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Á chỉ tổ chức cưới theo phong tục tập quán tại xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An tháng 04 năm 1995 và chung sống với nhau từ đó đến nay mà không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Anh và chị Nguyễn Thị Á do tính tình không hợp nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, cuộc sống không có hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2017 đến nay. Anh Nguyễn Như Y thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên viết đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với chị Nguyễn Thị Á.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị Á có 02 con chung tên là Nguyễn Quỳnh T, sinh ngày 22/01/1996, Nguyễn Phương U, sinh ngày 12/5/2003. Hiện nay con chung Nguyễn Quỳnh T đã đủ 18 tuổi (trưởng thành), tự lập, có gia đình riêng. Còn con chung Nguyễn Phương U, nếu ly hôn thì anh Y đồng ý giao cho chị Á trực tiếp nuôi dưỡng, anh Y đồng ý cấp dưỡng nuôi con cùng chị Á 2.000.000 đồng/tháng, kể từ thời điểm Tòa án giải quyết vụ án cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản và nợ chung: Anh Nguyễn Như Y không yêu cầu Tòa án giải quyết. Qua biên bản lấy lời khai chị Nguyễn Thị Á là bị đơn trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Như Y chỉ tổ chức cưới theo phong tục tập quán tại xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An tháng 04 năm 1995 và chung sống với nhau từ đó đến nay mà không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Chị và anh Nguyễn Như Y do tính tình không hợp nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau, cuộc sống không có hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2017 đến nay. Chị Nguyễn Thị Á thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên việc anh Y yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn thì chị Nguyễn Thị Á cũng đồng ý ly hôn anh Nguyễn Như Y.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Á nhất trí với ý kiến trình bày của anh Nguyễn Như Y là vợ chồng hai con chung Nguyễn Quỳnh T, sinh ngày 22/01/1996 và Nguyễn Phương U, sinh ngày 12/5/2003. Nếu ly hôn, con chung Nguyễn Quỳnh T đã đủ 18 tuổi, trưởng thành, đã lập gia đình. Đối với con Nguyễn Phương U, ly hôn thì chị Á xin trực tiếp nuôi dưỡng và yêu cầu anh Y cấp dưỡng nuôi con cùng chị 2.000.000 đồng/tháng, kể từ thời điểm Tòa án giải quyết vụ án cho đến khi con đủ 18 tuổi.

- Về tài sản: Chị Nguyễn Thị Á không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với tài sản chung của vợ chồng.

+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 14, 15, 81,82,83,110,116, 117 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, xử: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Nguyễn Như Y và chị Nguyễn Thị Á.

Về án phí: Anh Nguyễn Như Y chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Anh Nguyễn Như Y khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị Á nhưng anh, chị không đăng ký kết hôn. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là: “ tranh chấp ...... của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn...” theo quy định tại khoản 7 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Chị Nguyễn Thị Á đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm Q, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Như Y và chị Nguyễn Thị Á chỉ tổ chức cưới theo phong tục tập quán tại xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An tháng 04 năm 1995 và chung sống với nhau từ đó đến nay mà không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống thì hai giữa anh Y và chị Á thường xuyên xảy ra mâu thuẫn với nhau. Do mâu thuẫn kéo dài dẫn đến vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa, cuộc sống chung giữa hai người không còn hạnh phúc nên anh Y và chị Á đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2017 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án thì anh Nguyễn Như Y và chị Nguyễn Thị Á đều thống nhất ly hôn nhưng do anh, chị không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên cần xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Nguyễn Như Y và chị Nguyễn Thị Á.

[4] Về con: Con chung Nguyễn Quỳnh T, sinh ngày 22/01/1996 đã đủ 18 tuổi, trưởng thành, đã lập gia đình nên không phải giao nuôi con. Đối với con chung Nguyễn Phương U thì chị Nguyễn Thị Á có nguyện vọng nuôi con và anh Nguyễn Như Y cũng đồng ý giao con và cấp dưỡng nuôi con cùng chị Á, thấy rằng: Căn cứ vào nguyện vọng của đương sự, xét hoàn cảnh, điều kiện để nuôi con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ nên cần công nhận sự thỏa thuận của hai bên đương sự là giao con chung Nguyễn Phương U, sinh ngày 12/5/2003 cho chị Á trực tiếp nuôi dưỡng và anh Y cấp dưỡng nuôi con cùng chị Á 2.000.000 đồng/tháng, kể từ thời điểm Tòa án giải quyết vụ án cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là hợp lý.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Anh Nguyễn Như Y và chị Nguyễn Thị Á không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[6] Về án phí: Anh Nguyễn Như Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53; các Điều 15, 81,82,83,110,116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Nguyễn Như Y và chị Nguyễn Thị Á.

Về con: Công nhận sự thỏa thuận của anh Nguyễn Như Y và chị Nguyễn Thị Á về giao con chung Nguyễn Phương U, sinh ngày 12/5/2003 cho chị Nguyễn Thị Á trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 4 năm 2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi ( trưởng thành); anh Nguyễn Như Y cấp dưỡng nuôi con cùng chị Nguyễn Thị Á 2.000.000 đồng/tháng, kể từ tháng 4 năm 2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi ( trưởng thành). Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về án phí: Anh Nguyễn Như Y chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Được khấu trừ trong số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng anh Nguyễn Như Yên đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001859 ngày 10/ 3/ 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn. Báo cho nguyên đơn, bị đơn biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay 28/4/ 2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 54/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn giữa anh Y và chị A

Số hiệu:54/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về